16 Bài thơ của Thiền sư Huyền Quang – Dịch bởi Thích Nhất Hạnh

16 bài thơ của Thiền sư Huyền Quang do thầy Thích Nhất Hạnh dịch mang chút dư âm của khung cảnh mấy trăm năm trước hiện về. Những vần thơ nhỏ vô thanh vô thức vô tâm niệm của lão thiền sư tự tại giữa chốn tục lụy trần ai. Thiền sư Huyền Quang là tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trúc Lâm Đại Sĩ (vua Trần Nhân Tông) thành lập tại Việt Nam (thế kỷ XIV).

Chu trung

Nhất diệp biển chu hồ hải khách
Tranh xuất vi hàng phong thích thích
Vi mang tứ cố vãn triều sinh
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch

Chu trung

Làm trên thuyền

Một lá thuyền con khách hải hồ
Vượt bờ lau lách, gió vi vu
Triều dâng bốn mặt, hoàng hôn phủ
Trời nước mênh mông, một dáng cò.

Làm trên thuyền

Diên hựu tự

Thượng phương thu dạ nhất chung lan
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan

Diên hựu tự

Chùa Diên Hựu

Đêm thu chùa vắng, tiếng chuông ngân
Sóng ánh mầu trăng, lá rụng hồng
Cánh đảo chim âu trời lạnh ngủ
Tháp vương đỉnh bạc sáng từng không
Thành ngăn tục lụy trần không vướng
Cửa ngỏ vô ưu mắt rộng tầm
Thấy được thị phi cùng một tướng
Ma cung Phật quốc cũng ngồi chung.

Chùa Diên Hựu

Yên Tử Sơn Am Cư

Am bức thanh tiêu lãnh
Môn khai vân thượng tằng
Dĩ can Long động nhật,
Do xích Hổ khê băng.
Bão chuyết vô dư sách
Phù suy hữu sấu đằng
Trúc lâm đa túc điểu
Quá bán bạn nhàn tăng.

Yên Tử Sơn Am Cư

Am Yên Tử

Am cao trên đỉnh lạnh
Cửa mở mây từng không
Long Động trời đã tỏ
Hổ Khê nước còn băng
Văn chương không kế sách
Gậy chống thân gầy còm
Hầu hết chim rừng Trúc
Là bạn của nhàn tăng.

Xem thêm:  Quẻ nào giúp bạn biết trước cơ hội đổi đời?

Am Yên Tử

Ngọ Thụy

Vũ quá khê sơn tịnh
Phong lâm nhất mộng lương
Phản quan trần thế giới
Khai nhãn túy mang mang

Ngọ Thụy

Ngủ trưa

Mưa tạnh, khe núi tĩnh
Ngủ mát dưới rừng phong
Nhìn lại cõi nhân thế
Mắt mở vẫn say nồng.

Ngủ trưa

Thạch thất

Bán gian thạch thất hòa vân trụ
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn
Tăng tại thiền sàng, kinh tại án,
Lô tàn cốt đột nhật tam can.

Thạch thất

Am Thạch Thất

Nửa gian thạch thất cùng mây ngủ
Chống rét năm trường chiếc áo bông
Tăng tọa thiền sàng, kinh đặt án,
Mặt trời ba trượng, củi lò không.

Am Thạch Thất

Thứ Bảo Khánh Tự Bích Gian Đề

Hoang thảo tàn yên dã tứ đa,
Nam lâu Bắc quán tịch dương tà.
Xuân vô chủ tích thi vô liệu,
Sầu tuyệt Đông phong kỷ thụ hoa.

Thứ Bảo Khánh Tự Bích Gian Đề

Ghé chùa Bảo Khánh

Tình quê man mác mầu sương cỏ
Quán Bắc lầu Nam nhuộm nắng tà
Thơ không tài liệu, xuân không chủ
Buồn nhớ đông phong, lũ cỏ hoa.

Ghé chùa Bảo Khánh

Địa Lô Tức Sự

Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương,
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương.
Thủ bả suy thương hòa thái thác,
Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang.

Địa Lô Tức Sự

Hỏa lò

Củi hết, lò còn vương khói nhẹ
Sơn đồng hỏi nghĩa một chương kinh,
Tay cầm dùi mõ, tay nâng sáo
Thiên hạ cười ta, cứ mặc tình.

Hỏa lò

Nhân sự đề cứu – Lan tự

Đức bạc thường tàm kế tổ đăng,
Không giao Hàn Thập khởi oan tăng.
Tranh như trục bạn quy sơn khứ,
Điệp chướng trùng san vạn vạn tằng.

Nhân sự đề cứu - Lan tự

Đề chùa cứu Lan

Đức bạc thẹn mình nối tổ đăng
Học theo Hàn, Thập dứt đa đoan
Hãy đi với bạn về non ở
Rừng núi bao quanh đến vạn từng.

Đề chùa cứu Lan

Mai hoa

Dục hướng thương thương vấn sở tòng,
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung.
Chiết lai bất vị già thanh nhãn,
Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông.

Mai hoa

Hoa Mai

Ngửa mặt trời xanh hỏi lý do
Hiên ngang trong núi mọc mình hoa
Bẻ về, không để chưng vui mắt
Chỉ mượn mầu Xuân đỡ bệnh già.

Xem thêm:  Tử vi 2023 tuổi Tân Sửu 1961 nam mạng: Mưu sự dễ thành

Hoa Mai

Trú miên

Tổ phụ điền viên nhậm tự sừ,
Thiên thanh bàn khuất nhiễu ngô lư.
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
Nhất chẩm thanh phong trú mộng dư.

Trú miên

Ngủ ngày

Vườn ruộng tổ tiên hãy tự cày
Nhà tranh non biếc khắp bao vây
Ngoài song, hương mộc, chim im tiếng
Gió mát vừa qua, giấc đã say.

Ngủ ngày

Sơn Vũ

Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha,
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la.
Dĩ hĩ thành thiền tâm nhất phiến,
Cùng thanh tức tức vị thùy đa!

Sơn Vũ

Nhà núi

Gió thu xào xạc thổi qua hiên
Núi vắng lều tranh gối cỏ mềm
Nếu quả thiền tâm đà một khối
Tiếng trùng sao réo gọi thâu đêm?

Nhà núi

Ai phù lồ

Khóa huyết thư thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.

Ai phù lồ

Thương tù nhân

Thư biên bằng máu nhắn tin nhau
Cô đơn chiếc nhạn vút mây sầu
Bao nhà nhìn nguyệt đêm nay nhỉ?
Hai chốn cùng chung một nỗi đau!

Thương tù nhân

Phiếm Chu

Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang,
Sơn thanh thủy lục hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.

Phiếm Chu

Đi thuyền

Mênh mông theo gió con thuyền nhỏ
Thu sáng ngời xanh nước với cây,
Tiếng sáo thôn chài lau lách vọng
Trăng lặn giòng sông sương trắng đầy.

Đi thuyền

Đề động hiên đàn Việt Giả Sơn

Hoa mộc di duyên chủng tác sơn,
Lung yên trạo nguyệt, lạc hoa hàn.
Tùng tư niệm lự đô vô tục,
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an.

Đề động hiên đàn Việt Giả Sơn

Non bộ của động hiên

Núi dựng nên bằng đá với cây
Có lồng hoa rụng, tuyết, trăng, mây
Từ đây mọi niệm đà thanh thoát
Gió mát riêng mình giấc ngủ say.

Non bộ của động hiên

Tảo thu

Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đường vong thích hương sơ tận,
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh.

Tảo thu

Đầu thu

Hương đêm mát dịu, bình phong lạnh
Xào xạc thu sang lá động cành
Trúc đường thong thả, hương vừa đốt
Cành cây chăng lưới lọt trăng thanh.

Đầu thu

Cúc hoa

Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa.

Xem thêm:  NẰM MƠ THẤY PHẬT DI LẶC MANG ĐIỀM BÁO VÀ Ý NGHĨA GÌ? ĐÁNH SỐ BAO NHIÊU?

Đại giang vô mộng cán khô tràng,
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang.
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn,
Thi biểu thực vị cúc hoa mang.

Vương thân vương thế dĩ đô vương,
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương.
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật,
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương.

Niên niên hòa lộ hướng thu khai,
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài.
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ,
Mãn đầu tùy đáo tháp quy lai.

Hoa tại trung đình nhân tại lâu,
Phần hương độc tọa tự vong ưu.
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh,
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.

Xuân lai hoàng bạch các phương phi,
Ái diễm liên hương diệc tự thì.
Biến giới phồn hoa toàn trụy địa,
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.

Cúc hoa

FAQs

1. Thiền sư Huyền Quang là ai?

Thiền sư Huyền Quang là tổ thứ ba của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Trúc Lâm Đại Sĩ (vua Trần Nhân Tông) thành lập tại Việt Nam (thế kỷ XIV).

2. Ai là người dịch 16 bài thơ của Thiền sư Huyền Quang?

Thích Nhất Hạnh là người dịch 16 bài thơ của Thiền sư Huyền Quang.

3. Những hình ảnh trong bài thơ được chụp từ đâu?

Các hình ảnh trong bài thơ được chụp từ thiên nhiên, khung cảnh tự nhiên của Việt Nam.

4. Bài thơ của Thiền sư Huyền Quang mang ý nghĩa gì?

Bài thơ của Thiền sư Huyền Quang mang thông điệp về sự tự tại, thanh tịnh và niệm Phật trong cuộc sống hàng ngày. Nó thể hiện sự kết nối giữa tâm và thiên nhiên, giúp chúng ta tìm thấy bình an và sự giải thoát.

Kết luận

16 bài thơ của Thiền sư Huyền Quang dịch bởi Thích Nhất Hạnh là những tác phẩm sâu sắc và tinh tế. Chúng mang đến cho ta những suy ngẫm về cuộc sống và sự tự tại. Hy vọng rằng những bài thơ này sẽ giúp bạn tìm thấy sự bình an và hạnh phúc trong cuộc sống hàng ngày.