Câu chuyện về Đức Thánh Trần trừ tà không chỉ là một phần của kho tàng huyền học Việt Nam mà còn là minh chứng cho sức mạnh tâm linh và tín ngưỡng dân gian sâu sắc. Vào năm 1920, một sự kiện đặc biệt đã diễn ra tại Hải Dương, thu hút sự chú ý của hai nhà thông linh học người Pháp, ông Camille Flammarion và bà Josette d’Estamines, khi họ đến Đông Dương khảo sát về giới phù thủy. Qua sự giới thiệu của một viên tri huyện, vốn là con nuôi của một pháp sư nổi tiếng, họ đã có cơ hội chứng kiến tận mắt một buổi lễ thỉnh Thánh trừ tà đầy kỳ bí, sau này được ghi lại trong tạp chí “La Revue des Deux Mondes”.
Buổi tối hôm đó, sau khi đoàn khách đã dùng bữa và nghỉ ngơi tại điện thờ, một bà lão cùng con trai tìm đến, tha thiết nhờ vị pháp sư ra tay cứu giúp người con dâu đang bị “ma làm”. Người phụ nữ trẻ đã đau ốm nửa tháng, lúc tỉnh lúc mê, mọi phương cách đều vô hiệu. Bà lão thành kính đặt lễ lên đĩa, cầu xin pháp sư làm lễ cúng Thánh, mong giải trừ tai ương. Viên tri huyện thông báo với hai vị khách Pháp rằng họ sẽ được chứng kiến nghĩa phụ ông thỉnh âm binh thần tướng về trừ tà, cứu chữa cho nữ tín chủ đang bị “quỷ ám” sau bốn ngày nữa.
Buổi Lễ Đầu Tiên: Phạm Phò Mã Giáng Đàn
Đúng hẹn, bà cụ và con trai đưa người con dâu ốm yếu, xanh xao đến bằng võng. Vừa tới cổng điện, thiếu phụ nằm trên cáng bỗng hét lên đòi quay về, ánh mắt trở nên đanh ác, cơ thể giãy giụa dữ dội, quyết không chịu vào trong. Hai nhà thông linh ngoại quốc ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đang xảy ra. Viên tri huyện giải thích rằng đó là do con tà đang ám trong người thiếu phụ sợ hãi, không dám bước vào nơi thờ tự linh thiêng.
Ngay lúc đó, lão pháp sư bước ra, vỗ tay lên đầu đòn cáng và ra lệnh cho phu khiêng đưa người bệnh vào điện. Thiếu phụ lập tức biến sắc, nằm im thin thít trên cáng, vẻ sợ hãi lộ rõ. Khi vào trong, pháp sư đỡ thiếu phụ dậy, dẫn đến ngồi cạnh mẹ chồng và chồng.
Bà d’Estamines nhận xét: “Tôi thấy con tà có vẻ sợ pháp sư, không còn hung dữ như lúc mới đến.” Viên tri huyện đáp lời: “Con tà đã tạm thời xuất ra rồi.” Bà hỏi tiếp: “Vậy là thiếu phụ hết đau rồi sao? Con tà đã đi đâu?” Ông giải thích: “Nó chưa trả lại hồn vía, chưa giải bệnh cho người ta thì trốn sao thoát? Nó đang ở ngoài cửa vì sợ không dám vào. Pháp sư đã dùng phép đánh bật nó ra khỏi người nạn nhân và dùng tay vỗ lên gọng cáng để tạm thời trói nó vào đó.”
Thấy sự tò mò của khách, viên tri huyện giải thích thêm về khả năng nhìn thấy ma quỷ của pháp sư: “Nghĩa phụ tôi khi niệm chú ‘kiến âm’ thì có thể thấy được nơi ma quỷ ẩn náu. Tuy nhiên, chú này cùng nhiều bí chú khác chỉ được mật truyền sau khi đã luyện thành các phép thuật cao siêu. Người thường nếu không phải chính tông pháp sư mà đọc chú này, dù chỉ một lần, mắt sẽ bị thong manh, nói không thành tiếng. Việc hôm trước ngài cho quý vị thấy âm binh, cô hồn ở chợ là dùng ấn quyết và thư phù lên mắt tạm thời, không phải chú ‘kiến âm’.”
Đột nhiên, chuông trống nổi lên, báo hiệu buổi lễ sắp bắt đầu. Điện thờ lung linh ánh nến, khói hương nghi ngút. Giữa sập thờ là chiếc ghế tựa sơn son, lão pháp sư ngồi đó, tay cầm túm nhang, lặng lẽ mật khấn. Phía sau, trên chiếu, người thiếu phụ bị tà ám ngồi bơ phờ. Dưới sàn, ba cung văn bắt đầu tấu nhạc.
Tiếng trống hành sai ngày càng dồn dập. Lão pháp sư trao nhang cho người hầu đồng, lấy chiếc khăn nhiễu phủ lên đầu, ngồi im một lát rồi giơ cao hai ngón tay khi chiếc khăn từ từ rơi xuống. Người hầu đồng hiểu ý, biết đó là vía Phạm phò mã (Phạm Ngũ Lão) đã giáng đàn, liền lấy chiếc áo nhiễu điều mặc phủ lên áo thâm của pháp sư và chít khăn đỏ lên đầu ngài. Một người hầu đồng khác trùm lá cờ lục xanh lên đầu thiếu phụ. Tiếng trống vẫn thôi thúc, thiếu phụ bắt đầu lắc lư (giao đảo) ngày càng mạnh. Khi lá cờ rơi xuống, mắt thị mở trừng, láo liên nhìn quanh, nhưng vẫn tiếp tục giao đảo chậm rãi.
Flammarion thắc mắc về ý nghĩa của việc trùm khăn, phủ cờ. Viên tri huyện giải đáp: “Nghĩa phụ tôi giải thích rằng việc này nhằm che giấu hiện tượng xuất hồn của con đồng và nhập cốt của vía thần, dù người thường không thấy được. Các phép biến hóa thần thông thường không phô diễn trực tiếp trước mắt người sống. Như hôm qua, để biến đầu heo thành đầu người, ngài phải đánh lạc hướng sự chú ý bằng cách yêu cầu nhắm mắt hoặc chỉ tay lên trời.”
Bất chợt, có tiếng chân nện mạnh trên sập. Lão pháp sư đã được “lên đai” – hai người hầu đồng dùng khăn nhiễu siết chặt cổ pháp sư đến mức mặt ngài sưng phù, đỏ bầm vì máu tụ. Hai cây lình lá hình mũi dao được xiên qua mép, dựng đứng hai bên má. Vía Phạm phò mã giáng đàn, tay cầm thanh kiếm gỗ sơn son, ra hiệu cho người hầu đồng lấy roi và vồ linh (trống gỗ nhỏ có cán) để khảo tà.
Tiếng thét sai âm binh vang lên, người hầu đồng lấy roi đánh đen đét xuống chiếu hai bên chỗ thiếu phụ ngồi. Con tà vẫn không nao núng, tiếp tục giao đảo như lật đật, hai tay chống nạnh, mắt nhìn ngạo nghễ. Bà d’Estamines hỏi tại sao không đánh roi trực tiếp vào người thiếu phụ. Viên tri huyện giải thích: “Đánh vào thân xác không có tác dụng, lại gây thêm đau đớn và dấu vết không hay. Âm binh thần tướng đã giữ chặt con tà, vật nó sang hai bên để người hầu đồng dùng roi, vồ đánh vào khoảng không đó là đủ.”
Thình lình, con tà giật lấy cặp vồ linh từ tay người hầu đồng, tự đánh mạnh vào vai, lưng, ngực mình. Bà đầm ngạc nhiên. Viên tri huyện lý giải: “Đó là nó đang tự ra oai, tỏ vẻ không sợ đòn của thần tướng.” Một lúc sau, thiếu phụ ném cặp vồ xuống sập, tiếp tục giao đảo, mắt sắc như dao, thỉnh thoảng nhếch môi cười thách thức. Con tà này thuộc loại khó trị, đang chống cự lại phép Thánh.
Thất Bại và Giải Thích: Oai Linh và Giới Hạn
Trong khi vía Phạm phò mã dùng ánh mắt uy nghiêm để chế ngự con tà, hai người hầu đồng khác đốt thêm nhang, thỉnh chuông, quỳ khấn trước bàn thờ Ngũ Hổ (quan Năm Dinh). Tiếng trống và thanh la càng thêm dồn dập. Hai chiếc ghế đẩu được mang đến đặt cạnh ghế phò mã. Bất ngờ, hai người hầu đồng đang quỳ bỗng mặt đỏ phừng, gầm lên rồi nhảy lên ngồi chồm hỗm trên ghế đẩu, nhe nanh, mắt gườm gườm nhìn con tà. Người hầu đồng thứ ba lấy áo nhiễu vàng và trắng mặc cho hai người vừa được thần nhập (ốp đồng).
Viên tri huyện giải thích cho các vị khách Pháp rằng đó là hai vị Hổ thần Hoàng và Bạch trong Ngũ Hổ Thần Tướng đã giáng đàn để áp đảo, buộc con tà phải khai khẩu vì nó đã cưỡng lệnh phò mã. Khi được hỏi liệu phò mã có kém oai linh hơn hai vị Hổ thần không, ông đáp: “Không phải vậy. Ngài phò mã đã theo tu với Đức Chử Đồng Tử ngoài Đông Hải hai năm nay nên ít về giáng đàn, trừ những điện lớn như nơi đây. Vì chuyên tâm tu hành, Ngài không còn hiển lộng thần oai như trước. Trong mười vụ trừ tà, Ngài thường giáng trị tám, chín vụ, hiếm khi mới phải triệu thỉnh đến Đức Thánh Kiếp Bạc.”
Hai vị Hổ thần vẫn gầm gừ, tay cầm cờ lệnh phất lia lịa trên đầu thiếu phụ. Người hầu đồng dưới chiếu đánh roi chí chát, quát lớn: “Xin các quan đánh đuổi! Căng thẳng hai tay nó ra! Trói nó lại!” Con tà vẫn ngạo nghễ, không hề sợ hãi, hai tay nắm chặt đầu gối. Bỗng nhiên, nó giật bắn lên, run rẩy từng cơn như động kinh, tóc tai rũ rượi. Hai cánh tay như bị một lực vô hình kéo mạnh xuống chiếu, không nhấc lên nổi. Nó cố gắng co tay lên rồi lại bị kéo xuống, vùng vẫy như vậy hơn một khắc đồng hồ, cuối cùng đành phải chống thẳng hai tay xuống chiếu như bị dính chặt vào mặt sập.
Viên tri huyện giải thích các động tác này: “Đó là do con tà đang cố chống lại áp lực của hai vị Hổ thần muốn ép tay nó xuống chiếu, không cho cử động, để buộc nó phải khai khẩu.” Ông giải thích thêm về quy trình chế ngự tà ma: “Có ba giai đoạn. Đầu tiên là áp đảo, bắt nó khai thật về tung tích, lý do tác quái, tại sao hãm hại nạn nhân. Giai đoạn hai là ép nó trả lại hồn phách, giải trừ bệnh tật. Giai đoạn ba là bắt nó cam đoan không tái phạm. Nhiều con tà rất rắn mặt, không chịu khai thật.”
Khi được hỏi tại sao không bắt nhốt con tà như tội phạm trần gian, viên tri huyện cho biết: “Nghĩa phụ tôi nói rằng dưới cõi âm, chỉ có Thập Điện Diêm Đài mới có quyền xét xử các vong hồn. Không ai khác được phép làm vậy, kể cả với các hồn còn vất vưởng trên trần. Những oan hồn kiện kẻ hại mình còn sống thường được Diêm Vương cho phép lên trần trả oán hoặc sai quỷ sứ bắt xuống trị tội nếu kẻ đó chưa tận số. Tuy nhiên, oan hồn chỉ được phép làm cho kẻ thù đau ốm, điên loạn, gặp nạn chứ không được làm chết.”
Tại Sao Con Tà Rắn Mặt?
Bất ngờ, thiếu phụ tru lên đau đớn khi hai vía Hổ thần từ trên đầu nhảy xuống, dùng chân chặn cứng hai tay thị xuống mặt sập. Con tà giãy giụa một hồi rồi đành nằm im, cúi gằm mặt. Dù bị khuất phục, mắt nó vẫn liếc ngang liếc dọc, trong khi hai Hổ thần hầm hè nhìn xuống. Người hầu đồng tiếp tục nện roi và quát: “Xin các quan áp đảo kéo lưỡi nó ra! Bắt nó khai khẩu!”
Con tà cố nhúc nhích nhưng nửa thân dưới không cử động được, hai tay như bị đóng đinh. Nó mím chặt môi, lắc đầu lia lịa, cố chống cự việc bị kéo lưỡi. Cuối cùng, không thể kháng cự nổi, nó thét lớn: “Ta bị chết oan! Diêm Đế cho ta lên trần trả oán! Không ai bắt được ta!”
Cả điện thờ xôn xao trước lời thú nhận của con tà. Người hầu đồng ra hiệu mang đến một tách trà nóng và chậu nước mưa đặt trước mặt thiếu phụ, rồi ôn tồn dụ dỗ: “Hồn có oan ức gì? Hãy tống khẩu, tẩy thủ, tẩy diện (súc miệng, rửa tay, rửa mặt) rồi giãi bày trước cửa Thánh. Phò mã sẽ giải quyết cho!”
Tuy nhiên, con tà không chịu khai ngay. Phải mất gần nửa giờ vừa dỗ dành vừa dọa nạt, nó mới chịu kể lại câu chuyện bi thương của mình. Nó tự xưng là vợ cả của người chồng thiếu phụ hiện tại và đã bị chính người vợ lẽ này đầu độc chết. Giọng nó trở nên lảnh lót: “Bảy tám năm trước, con dâm phụ này dan díu với chồng ta. Nó ngấm ngầm sai đứa cháu gái họ ở Hưng Yên đến xin làm con ở cho ta. Một hôm, đứa cháu thừa cơ bỏ thuốc độc kim câu vào trầu. Ta chỉ nhai ba miếng là bị á khẩu, chết không kịp trối. Lúc khâm liệm, mẹ ta thấy máu nơi khóe miệng, biết ta chết oan nên đã làm đơn kiện. Nhưng quan địa phương ăn hối lộ, phán rằng ta nghiện trầu nặng, trúng phong mà chết, cốt trầu còn trong miệng nên ọc ra máu. Thế là con dâm phụ thoát tội.”
“Sau ma chay ba ngày, chúng đã ngang nhiên hú hí trên chính giường của ta. Hồn ta uất hận phải bay lên ngọn cau trú ngụ. Hết tuần tứ cửu, chúng công khai thành vợ chồng. Ta đã hóa phép làm cháy bình nhang giữa ban ngày để dằn mặt. Vì hàm oan quá lớn, ta được Diêm Vương cho phép lên trần trả oán. Nhưng lúc đó vận số con dâm phụ còn vượng, ta chưa làm gì được. Ta định đầu thai để rửa hận, nhưng nó lại có bà tổ cô linh thiêng phù hộ nên thai không đậu, liên tục bị sảy. Quá căm hận, ta làm cho nó hữu sinh vô dưỡng, đẻ ba đứa con đều không nuôi được. Nay nó gặp vận hạn Kế Đô, ta quyết bắt hồn vía nó, cho nó sống dở chết dở đến ngày tận số.”
Nghe xong, vía Phạm phò mã nghiêm giọng quát: “Không được! Ngươi không được phép hại người đến chết. Xưa ngươi gieo nhân thì nay phải gặt quả. Kiếp trước ngươi giết người cướp chồng thì kiếp này bị người đoạt chồng, hại lại, đó là oan oan tương báo, luật vay trả rõ ràng. Hãy nể phép ta, tha cho nó! Oán nên cởi, không nên buộc! Nếu không, bao giờ hồn ngươi mới được siêu sinh tịnh độ?”
Con tà lắc đầu quầy quậy, giọng gay gắt: “Không! Diêm Vương đã cho ta lên trả oán, không ai cản được ta!”
Lời vừa dứt, hai vía Hổ thần liền “rã đồng” (thoát ra khỏi người hầu đồng). Ngay sau đó, vía Phạm phò mã cũng giơ tay ra hiệu thăng đồng. Hai người hầu đồng vội vã “thôi đai”, tháo nút khăn siết cổ. Vừa xong, thân xác pháp sư cũng ngả ra ghế, vía phò mã đã thăng. Khuôn mặt lão pháp sư từ đỏ bầm, sưng tấy vì máu tụ lập tức trở lại bình thường. Thiếu phụ cũng “xả đồng” ngay sau đó.
Bà đầm thắc mắc. Viên tri huyện giải thích rằng các thần tướng không đủ oai lực để khuất phục con tà quá hung dữ này. Phạm phò mã trước kia rất oai linh, nhưng nay đã tu hành nên thuần hậu hơn, không muốn dùng thần thông quá mạnh. Hai vị Hổ thần lại là quan cấp dưới, chưa đủ uy lực. Flammarion hỏi: “Vậy là con tà đã thắng?” Viên tri huyện đáp: “Chưa đâu. Phải đợi đến mai mốt, triệu thỉnh Đức Thánh Kiếp Bạc giáng đàn mới trị nổi nó. Chỉ có Đức Thánh Trần – vị Thánh tổ của giới phù thủy An Nam – mới đủ sức hàng phục loại tà ma này.” Khi được hỏi tại sao không thỉnh Ngài ngay, ông giải thích: “Không phải lúc nào cũng thỉnh được Đức Thánh. Pháp sư phải trai giới đủ ba ngày, và Ngài chỉ giáng đàn khai điện trước các thần tướng khác.”
Đức Thánh Trần Ra Oai, Con Tà Sợ, Trốn Không Thoát
Trời sẩm tối. Điện thờ lại sáng rực đèn đuốc, mọi thứ đã sẵn sàng chờ thiếu phụ bị tà ám đến để khai đàn. Đang trò chuyện cùng khách, lão pháp sư bỗng mặt đỏ bừng, mắt lim dim rồi đột ngột đứng dậy, lùi nhanh xuống thềm, bước thẳng ra cổng. Đúng lúc đó, mẹ và chồng thiếu phụ hớt hải chạy tới. Dường như không thấy họ, pháp sư cứ đi thẳng về phía chợ. Đến nơi, ông thấy chiếc võng nằm chỏng chơ bên đường, hai phu khiêng ngồi bó gối. Lão pháp sư lập tức giậm chân, tay bắt quyết, quát lớn một tiếng rồi đập mạnh hai tay vào đầu võng, ra lệnh cho phu khiêng tiếp tục đưa thiếu phụ đến điện thờ.
Đoàn khách猎 theo chân pháp sư ra chợ. Trên đường về, qua lời thông dịch của viên tri huyện, pháp sư kể lại rằng lúc nãy tại điện, mặt ông đột nhiên đỏ bừng, mắt nhắm lại là do âm binh về cấp báo: con tà đã cầu cứu đám cô hồn ở chợ Thị Cầu chặn đường, không cho võng đi qua. Lũ quỷ hồn bu đầy võng, bám chặt hai đầu đòn, níu kéo phu khiêng khiến họ ngột ngạt, xây xẩm, buộc phải hạ võng. Âm binh không áp đảo nổi nên phải về báo gấp.
Sau khi pháp sư ra tay đánh đuổi bè lũ cô hồn, phu khiêng mới có thể tiếp tục lên đường. Về đến điện, thiếu phụ lại được đặt ngồi trên chiếu. Lão pháp sư cũng đã yên vị trên ghế tựa sơn son, khăn nhiễu điều phủ đầu, tay cầm nhang thầm khấn. Tiếng thanh la, não bạt, chập cheng hòa cùng tiếng trống hành sai dồn dập vang lên. Toán cung văn bắt đầu hát bài chầu văn ca ngợi công đức Đức Thánh Trần:
“Công cứu quốc cao dầy đã rõ,
Ơn chúng sinh tế độ còn dài
Đại Vương từ ngự thiên đài
Ngọc Hoàng giáng chỉ cứu người dương gian
…
Một tay che chở phù trì,
Công ơn tế thế sánh bì trời cao…”
Sau khi trao nhang cho hầu đồng và ngồi tĩnh lặng một lát, đầu pháp sư bắt đầu đảo lia lịa, ngài quát lên một tiếng rồi bỏ khăn trùm đầu ra. Biết Đức Thánh đã giáng, những người hầu đồng xúm lại phục dịch: phủ áo nhiễu điều, chít khăn đỏ, phủ cờ xanh lên đầu thiếu phụ. Tiếng trống càng lúc càng gấp gáp, thiếu phụ lại giao đảo mạnh, lá cờ rơi xuống, mắt láo liên nhìn quanh. Bên cạnh sập thờ, một lò lửa với chảo dầu đang sôi sùng sục đã được chuẩn bị sẵn.
Oai Lực Đức Thánh Trần: Khuất Phục Tà Ma
Đức Thánh Trần giáng đàn với vẻ oai nghi lẫm liệt khác hẳn lần trước, khiến con tà lộ rõ vẻ nao núng, khiếp sợ. Ngài cũng truyền cho thuộc hạ “lên đai” và xiên lình hai bên má. Rồi Ngài cất tiếng quát lớn về phía thiếu phụ:
“Sao mi chưa chịu trả hồn phách lại cho nạn nhân?”
Con tà tỏ vẻ kính nể nhưng vẫn còn ngoan cố. Pháp sư (trong thân xác Đức Thánh) từ từ đứng dậy, bước xuống đất, tiến lại gần chảo dầu sôi. Giữa tiếng trống dồn dập, ngài tay bắt quyết, miệng niệm chú, rồi quát lớn, dùng hai tay bốc thẳng dầu sôi trong chảo, đưa lên miệng húp rồi phun mạnh vào người thiếu phụ. Thiếu phụ thét lên một tiếng thất thanh, mặt lộ vẻ đau đớn tột cùng, toàn thân run rẩy, rú lên từng hồi ghê rợn. Khi pháp sư định bốc dầu sôi lần thứ hai, con tà rú lên thảm thiết hơn, vội chắp tay vái lia lịa, cúi đầu lạy như tế sao.
Sau khi thị uy bằng thần lực, giọng Đức Thánh Trần trở nên ôn hòa, phủ dụ:
“Thôi, ân oán giang hồ bấy nhiêu đã đủ! Mi hãy trả hồn phách cho người ta, rồi phải hồi tâm tu hành để mong được siêu sinh tịnh độ. Mi nghe chưa?”
Lời nói từ bi nhưng đầy uy lực của Đức Thánh dường như đã cảm hóa con tà. Nó cúi đầu chịu phép, không còn vẻ ngạo nghễ như trước, mắt nhìn xuống đất, tỏ rõ sự tuân phục. Thấy nó đã khuất phục, Đức Thánh truyền người mang vật liệu đến để bắt nó làm cam đoan: một lưỡi dao bén, một cái đĩa, một tờ giấy bản. Ngài ra lệnh cho con tà xòe hai bàn tay úp lên tờ giấy. Sau đó, vị pháp sư tự dùng dao rạch mạnh vào lưỡi mình. Một phần lưỡi đứt lìa rơi xuống đĩa. Ngài phun máu từ vết thương xuống tờ giấy bản. Dưới ánh nến lập lòe, cảnh tượng vô cùng kinh dị. Một lát sau, khi con tà nhấc tay lên, hình hai bàn tay với mười ngón tay hiện rõ trên nền giấy thấm máu. Ngay lúc đó, thiếu phụ giật bắn người, ngã ngửa ra sau – con tà đã hoàn toàn xuất khỏi. Đây là cách làm tờ cam đoan bằng “dấu tay máu”, một khi đã chịu phép này, tà ma sẽ không dám quay lại quấy phá nữa.
Sau đó, vía Đức Thánh Trần trở lại ghế son, ra hiệu thăng đồng. Các hầu đồng vội “thôi đai”, gỡ khăn, rút lình. Đức Thánh vừa thăng, lão pháp sư ngả người ra ghế. Điều kỳ diệu là phần lưỡi bị cắt đứt, vẫn còn dính máu và cựa quậy trên đĩa, được lão pháp sư nhặt lên, đưa vào miệng ráp lại và dính liền như cũ chỉ sau khoảng mười lăm phút, không cần khâu vá. Vết cắt chỉ còn lại một đường mảnh như sợi chỉ nâu sậm. Hai bàn tay và miệng lưỡi của pháp sư, dù đã tiếp xúc với dầu sôi, cũng hoàn toàn bình thường, không hề có dấu hiệu bị bỏng. Hai nhà thông linh Pháp đã vô cùng kinh ngạc trước những hiện tượng mà họ cho là độc nhất vô nhị trong giới phù thủy Việt Nam.
Lý Giải Nguồn Gốc Sức Mạnh Của Đức Thánh Trần
Bà d’Estamines tò mò hỏi liệu Đức Thánh Trần khi xưa có phải là một đại pháp sư hay không. Viên tri huyện giải thích:
“Nước Nam tôi có vị anh hùng dân tộc vĩ đại là Trần Hưng Đạo, người đã ba lần đánh tan quân xâm lược Mông Cổ. Sau khi quy thiên, Ngài hiển thánh và thường giáng đồng để cứu giúp dân chúng bị yêu ma quỷ quái ám hại. Đặc biệt là những phụ nữ bị ác vong Phạm Nhan (Nguyễn Bá Linh) quấy phá, không ai trị nổi, đều tìm về đền Kiếp Bạc cầu xin Ngài cứu giúp. Chỉ có Ngài mới đủ sức chế ngự con yêu này.”
“Phạm Nhan có cha là người Quảng Đông sang buôn bán, lấy vợ người Việt ở làng An Bài, Đông Triều. Năm 16 tuổi, Nhan theo cha về Trung Quốc học, đỗ tiến sĩ rồi lên núi tu tiên nhưng không thành. Sau đó, y theo quân Thoát Hoan sang đánh nước Nam lần thứ hai. Trong trận chiến, y dùng tà thuật làm nổi sóng dữ nhấn chìm thuyền quân Nam. Nhiều lần các tướng Trần Quang Khải, Yết Kiêu tìm cách bắt nhưng y đều dùng phép độn thủy trốn thoát. Hưng Đạo Vương đã bày kế, dặn các tướng chuẩn bị sẵn chỉ ngũ sắc và máu chó mực. Khi bắt được Nhan, phải nhấc bổng y lên, dùng chỉ ngũ sắc quấn cổ và tưới huyết chó lên người. Quả nhiên, Phạm Nhan hết đường biến hóa. Ngài thân chinh đưa y về làng mẹ để xử tội. Nhưng đao kiếm chém không thủng. Vương bèn lấy thanh Thượng phương bảo kiếm, khấn trời đất nếu còn phù trợ nhà Trần thì xin cho chém đứt đầu Phạm Nhan. Dứt lời, ngài vung kiếm, đầu Nhan rơi xuống. Nhưng vong hồn y không siêu thoát, tiếp tục lẩn khuất hãm hại phụ nữ.”
“Viên Đại tư xã Đông bộ đầu, một tướng cũ của Vương, có con gái bị Nhan hành hạ sắp chết, đã vào phủ quỳ khóc xin Ngài cứu. Vương đích thân đến nơi, dùng chính thanh kiếm đã chém Nhan, chém bốn nhát vào bốn góc giường rồi đặt kiếm ngang vai cô gái, quát lớn trục xuất hồn Nhan. Cô gái lập tức tỉnh lại, khỏi bệnh. Từ đó, dân chúng khắp nơi bị tà ma ám kéo đến xin Vương cứu giúp. Do không thể cứu chữa hết hàng ngàn người, Ngài sai thợ dùng thanh kiếm báu đó làm mẫu, gọt 28 thanh gươm gỗ trầm nhỏ hơn, cho dân mượn về làm theo lời dặn, khỏi bệnh phải mang trả để người khác dùng. Đến khi Ngài về trí sĩ ở Vạn Kiếp, người đến cầu cứu vẫn rất đông.”
“Sau khi Ngài quy tiên và hiển thánh, đền thờ Ngài ở Vạn Kiếp trở thành ‘chốn Tổ’, trung tâm hành hương của giới tâm linh. Các pháp sư, đạo sĩ toàn quốc đều về Kiếp Bạc xin làm đệ tử, tôn Ngài làm Thánh tổ thủ điện, cùng các bộ tướng cũ như Phạm Ngũ Lão (phò mã), Nguyễn Khoái, Dã Tượng, Yết Kiêu làm thần tướng hành sai. Tục lệ dùng gươm phép trừ tà được duy trì đến cuối đời Mạc. Khi yêu ma quỷ quái hoành hành, Ngài lại hiển thánh giáng đàn trấn áp. Đời sau, các pháp sư vẫn tìm về Kiếp Bạc xin tôn bình nhang làm đệ tử Đức Thánh để tiếp tục sứ mệnh trừ tà trị bệnh, cứu giúp dân lành.”