Lịch vạn niên qua các thời kỳ lịch sử đã trải qua nhiều biến động và thăng trầm. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn có cái nhìn toàn diện về quá trình này.
Vai trò quan trọng của lịch trong cuộc sống
Với một nước nông nghiệp như Việt Nam, lịch được coi là một yếu tố vô cùng quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần là công cụ để tính toán thời gian mà còn đóng vai trò trong việc tổ chức cuộc sống của con người, phục vụ các lễ nghi tôn giáo và có tầm quan trọng trong lịch sử cũng như khoa học.
Tuy nhiên, việc tìm hiểu về lịch Việt Nam trong quá khứ gặp không ít khó khăn do thiếu tư liệu. Một phần là do khí hậu nhiệt đới ẩm ướt và chiến tranh liên miên đã làm mất một số tư liệu quan trọng. Thêm vào đó, trong thời phong kiến, lịch pháp không được chú trọng phát triển, làm cho việc tìm hiểu về lịch Việt Nam càng trở nên khó khăn.
1. Lịch Việt cổ
Lịch Việt cổ có nguồn gốc từ Trung Quốc. Các hệ thống âm lịch dựa trên những nguyên tắc cơ bản giống nhau: tháng âm lịch bắt đầu vào ngày Sóc; tháng Nhuận đặt vào tháng không có Trung khí. Trong lịch sử, người Việt đã từng sử dụng lịch của Trung Quốc, nhưng cũng có những thời kỳ chúng ta đã tự tính âm lịch cho mình.
Mặc dù cách áp dụng nguyên tắc tính lịch có thể khác nhau, lịch Việt Nam và lịch Trung Quốc vẫn có nhiều điểm khác biệt. Ngoài ra, cũng có những bằng chứng cho thấy từ lâu trước thời kỳ Bắc thuộc, người dân nước Văn Lang đã sử dụng lịch riêng.
2. Các nhân vật nổi tiếng trong lịch pháp và một số cuốn lịch cổ tiêu biểu
Trong lịch pháp thời xưa, có một số nhân vật nổi tiếng như Đặng Lộ, Trần Nguyên Đán, Trần Hữu Thận, Nguyễn Hữu Hồ… họ đã có những đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu và soạn lịch.
Cuốn sách “Bách thế Thông kỷ” của Trần Nguyên Đán là một tác phẩm nổi tiếng về thiên văn, lịch pháp. Tuy nhiên, đến nay cuốn sách này đã không còn tồn tại.
Ngoài ra, còn có những cuốn lịch cổ đáng chú ý như “Khâm định vạn niên thư”, “Bách Trúng kinh”, “Lịch đại niên kỷ bách trúng kinh”…
3. Lịch vạn niên qua các thời kỳ lịch sử
3.1. Thời Bắc thuộc
Trong 1000 năm Bắc thuộc, lịch chính thức được sử dụng ở Việt Nam là lịch Trung Quốc. Tuy nhiên, việc ghi chép lịch sử trong thời kỳ này khá hạn chế, gây khó khăn trong quá trình nghiên cứu.
3.2. Thời phong kiến
Trong thời kỳ từ đời Đinh đến thời Lý Thái Tông, Việt Nam tiếp tục sử dụng lịch nhà Tống như lịch Ung Thiên hoặc lịch Sùng Thiên. Từ đời Lý Thánh Tông, nước ta bắt đầu tự soạn lịch riêng.
Các đời Lý và Trần từ 1080 đến 1399 sử dụng lịch được soạn theo phép lịch đời Tống, sau đó chuyển sang lịch Thụ Thời và sau này là lịch Hiệp Kỷ.
3.3. Thời Pháp thuộc và kháng chiến chống Mỹ
Trong thời kỳ từ 1813 đến 1945, nhà Nguyễn sử dụng lịch thời Hiến, giống như lịch của nhà Thanh ở Trung Quốc. Trong khi đó, Pháp cai trị nước ta đã lập các bảng đối chiếu Lịch Dương với Lịch âm Dương của Trung Quốc. Sau này, lịch thời Hiến được sử dụng lại do công của Nguyễn Hữu Thuận.
3.4. Từ năm 1968 đến nay
Vào năm 1967, lịch âm dương Việt Nam được soạn theo múi giờ 7, khác với lịch Trung Quốc soạn theo múi giờ 8. Để thống nhất việc tính giờ và lịch dùng trong cơ quan nhà nước và giao dịch dân sự, Chính phủ đã quyết định múi giờ chính thức của nước ta là múi giờ thứ 7.
Bên cạnh lịch Dương dùng trong các cơ quan, lịch âm vẫn được sử dụng để tính năm tết, ngày kỷ niệm lịch sử và các lễ tết cổ truyền.
4. Những thay đổi về giờ pháp định trong thế kỷ XX ở Việt Nam
Trong suốt thế kỷ XX, giờ pháp định của nước ta đã trải qua nhiều thay đổi theo định hướng của chính quyền thực dân. Những biến động chính trị đã khiến cho giờ pháp định trong cả nước hoặc từng miền bị thay đổi nhiều lần.
Dưới đây là một số mốc thay đổi giờ pháp định trong 100 năm qua ở Việt Nam:
- Ngày 1/7/1906: Lấy múi giờ đi qua Phủ Liễn làm giờ chính thức.
- Ngày 1/5/1911: Chuyển sang múi giờ 7 theo múi giờ Greenwich.
- Ngày 1/1/1943: Liên kết với múi giờ 8 theo Tokyo.
- Ngày 14/3/1945: Thay đổi theo múi giờ Tokyo.
- Ngày 2/9/1945: Lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức.
- Ngày 1/4/1947: Múi giờ 8 cho các vùng bị tạm chiếm, múi giờ 7 cho vùng giải phóng.
- Ngày 1/7/1955: Miền Nam trở lại múi giờ 7.
- Ngày 1/1/1960: Miền Nam chuyển sang múi giờ 8.
- Ngày 31/12/1967: Lấy múi giờ 7 làm giờ chính thức.
Từ năm 1968, Việt Nam theo múi giờ số 7.
Những thay đổi về múi giờ đã ảnh hưởng đáng kể đến quá trình biên soạn Lịch Vạn niên ở Việt Nam.
Tào Mạt (TH)