Nhân Tướng Phú, một tác phẩm kinh điển trong lĩnh vực nhân tướng học, được ví như Cốt Tủy Phú của môn Tử Vi bởi sự tinh túy và sâu sắc. Bài viết này tổng hợp và chú giải chi tiết các câu phú cốt lõi từ bộ sách này, nhằm mang đến cho độc giả Việt Nam yêu thích huyền học, đặc biệt là nhân tướng học, những kiến thức tham khảo giá trị. Tuy nhiên, để lĩnh hội trọn vẹn những điểm trọng yếu, người đọc cần có nền tảng kiến thức nhất định về Nhân Tướng, vì nội dung sách khá chuyên sâu và không dành cho người mới bắt đầu.
Nguyên tác Nhân Tướng Phú gồm hai quyển, do Trương Hành Giản (tự Kính Phủ), người đời Kim biên soạn. Ông là một học giả uyên thâm, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng như Thượng thư bộ Lễ, Hàn lâm học sĩ, và có đóng góp lớn trong việc hệ thống hóa kiến thức về Thiên văn, Thuật số. Tác phẩm này được Tiết Diên Niên (tự Thọ Chi) chú giải một cách công phu, rõ ràng. Mặc dù một số bản ghi thiếu thông tin, Vĩnh Lạc đại điền đã xác nhận Hành Giản là tác giả và Diên Niên là người chú giải.
Sách ghi chép những nguyên tắc cốt lõi của tướng pháp một cách ngắn gọn, súc tích nhưng đầy đủ, như lời Diên Niên nhận xét: “Những điều khái quát, thiết yếu, trên dưới ba nghìn từ. Thu tóm hết những điều thiết yếu nhất về tướng thuật.” Bài viết này dựa trên các bản cổ và lời chú giải của Diên Niên, đồng thời tham khảo các kiến giải khác nhằm cung cấp góc nhìn đa chiều về quan niệm nhân sinh của người xưa, đặc biệt là người Trung Hoa cổ đại, qua lăng kính nhân tướng học.
Các câu phú được đánh số thứ tự, theo sau là phần chú giải chi tiết để làm rõ ý nghĩa.
1. Quý Tiện Định Ư Cốt Pháp
Con người ta, xem quý tiện được quyết định ở phép xem cốt, ở cốt tướng.
Phàm con người sinh ra do khí của trời đất hội tụ nơi người mẹ mà thành hình. Sự hiền ngu, quý tiện, thọ yểu, cát hung trong đời không chỉ do hoàn cảnh xã hội mà còn do cốt tướng quyết định. Xương cốt được xem là vua (chủ), còn thịt da là bề tôi (kẻ dưới). Khi xương thịt hài hòa, cân đối, bổ trợ lẫn nhau thì tạo thành quý tướng. Ngược lại, nếu xương lộ, lồi, thịt da mỏng yếu thì thường gặp cảnh thấp hèn. Do đó, phú quý hay bần tiện phần nhiều do trời định và hoàn cảnh tạo nên, ngay cả quỷ thần hay bậc hiền thánh cũng khó lòng thay đổi.
Tống Tể Khâu, trong Ngọc quản chiếu thần có nói: Xương khớp ví như vàng đá, cần to lớn, thanh nhã, không cong vẹo; cần tròn trịa mà không thô kệch. Người béo không nên thừa thịt, người gầy không nên lộ xương. Thịt xương phải tương xứng, khí sắc phải hài hòa mới là phúc tướng. Nếu cốt cách lạnh lẽo, phát triển không đầy đủ thì dễ chết yểu hoặc sống đời bần hàn.
- Kim thành cốt: Xương nổi lên ở bên trái Nhật giác và bên phải Nguyệt giác, chủ về địa vị công khanh.
- Thiên trụ cốt: Xương từ Ấn đường nổi lên chạy tới Thiên đình, cũng chủ về công danh cao.
- Phục tê cốt: Xương từ Ấn đường nổi cao lên tới Thiên đình, có thể đạt tới ngôi Tam công. Tuy nhiên, cần xem xét sự phối hợp của các bộ vị khác, nếu không chỉ được phúc thọ chứ không quý hiển.
- Ngọc lương cốt: Xương quyền kéo dài tới tai, chủ về sống lâu.
- Long cốt: Xương từ vai đến khuỷu tay, tượng trưng cho vua, nên dài và lớn.
- Hổ cốt: Xương từ khuỷu tay đến bàn tay, tượng trưng cho bề tôi, nên ngắn và nhỏ.
Nhìn chung, cốt tướng cần rắn chắc, nở nang, tròn trịa, cao thẳng, nhịp nhàng, kiên cố mà không thô lỗ mới là tướng tốt.
Sách Thanh giám viết: Xương quyền có bốn trường hợp:
- Kéo dài ra sau đến tai: Sống lâu.
- Kéo lên đến Thiên thương.
- Nhô cao hẳn lên.
- Kéo về phía râu cằm.
Ba trường hợp sau đều chủ về làm quan lớn ở địa phương.
Sách Tạo thần lục chép: Mũi cao, xương quyền đầy đặn, nở nang là cốt tướng của người quân tử, đường hoàng.
Sách Thông tiên ngữ viết: Xương quyền đầy đặn như núi, Ngọc chẩm cũng vậy thì là bậc hiền thần triều đình.
Thành Hòa Tử bảo: “Những xương này tuy đầy đặn, nhưng không được cao nhọn, mặt mày nở nang, nhưng không được đầy thịt. Nếu không, cũng chỉ thành một viên lại, viên quan dung tục, tầm thường.”
- Lông mày thưa, mắt đẹp, thần khí thanh cao: Trí thức.
- Da thô, nhiều thịt, xương nặng, thần khí trọc: Người lao động chân tay.
- Xương nhẹ, da thịt mỏng: Người thợ.
- Xương thô, thịt dày: Người buôn bán.
- Cốt khí đầy đặn, sáng láng, tinh thần thong dong: Đời vui vẻ.
- Cốt đẹp, thịt mỏng, tinh thần lộ: Đời nhiều lo buồn.
Mười Quý Tướng:
- Mặt đen, thân trắng.
- Mặt thô, người nhỏ nhắn.
- Tay dài, chân ngắn.
- Người nhỏ, tiếng lớn.
- Long cốt to dài, Hổ cốt nhỏ nhắn.
- Mặt ngắn, mắt dài.
- Không có mùi hôi mà có mùi thơm.
- Trên đỉnh đầu có núm thịt nổi lên.
- Lưng nổi như mai rùa.
- Ngồi một mình vững như núi.
Ngược lại là tướng xấu. Tướng xấu khác: đỉnh đầu nhọn, sơn căn gãy hãm, xương Lương tiết chạy ngang, chóp mũi nhọn nhỏ, mặt không thần sắc, nói không ra tiếng là tướng đê tiện.
Sách Nguyệt ba động viết: Ngọc chẩm (phần xương sau gáy) chia làm 21 loại, đa phần là công hầu phú quý. Một số loại Ngọc chẩm tiêu biểu:
- Xa trừu chẩm: (Theo Linh đài bí ngữ) Thiếu niên khốn khó, trung niên hưng thịnh, về già suy yếu.
- Ngưỡng nguyệt chẩm: Tính cứng rắn, quý tướng.
- Phúc nguyệt chẩm: Tính nhu hòa, cẩn thận, thiếu quyết đoán.
- Bối nguyệt chẩm, Phương cốt chẩm: Quý tướng nhưng thấp hơn.
- Nhất tự chẩm: Tính thành tín, cương trực, quý tướng.
- Thập tự chẩm: Tính nóng vội, nói không suy nghĩ, không kiên định, quý tướng.
- Hồi hoàn chẩm (Xa phúc chẩm): Ông, cha, con đều quý hiển.
- Tả triệt chẩm, Hữu triệt chẩm: Sống lâu, hưởng phúc tổ tiên, quý nhưng không nhiều.
- Tam quan chẩm: Gia đình có người hiển đạt.
- Kê tự chẩm: Tính nóng vội, cực đoan, tự cho mình là đúng.
- Sơn tự chẩm (Hoàng sơn nhất tự chẩm): Thành tín, cương trực.
- Liên chẩm (Liệt hoàng chẩm): Nối với xương Ngọc đường, quý hiển, trường thọ, tính tình bất thường.
- Phẩm tự chẩm: Thanh nhã, tài hoa văn chương nghệ thuật, danh giá, tự trọng cao.
- Huyền châm chẩm, Thùy châm chẩm, Ngọc chẩm: Đều là tướng sống lâu.
- Tử tôn chẩm: Gần người quyền quý, có lộc nhưng không có quan vị.
- Đinh tự chẩm: Tính khoan hòa, gần bậc tôn quý.
- Yêu cổ chẩm: Thiếu niên tôn quý, tính tình không bình thường, sự nghiệp thăng trầm, hay phản phúc.
- Như châu chẩm: Gần người quý hiển, tính tình viễn vông.
- Thượng tự chẩm: Chí cao, gan lớn, thành bại thất thường, có ít quan lộc, quý nhưng không nhiều.
Sách Kinh viết: Người có Ngọc chẩm đều là quý tướng. Tăng đạo có Ngọc chẩm tuy không quý nhưng trường thọ. Người có Ngọc chẩm (hậu chẩm cốt) nổi lên thành xương là tướng sống lâu, có tài lộc. Nếu cao thấp không đều thì khó được lộc thọ. Phụ nữ có Ngọc chẩm thì cả đời tôn quý.
Sách Linh đài bí quyết viết: Đầu có 13 loại quý cốt thời trẻ:
- Hoa cáo cốt: Cao quý, kính quỷ thần, tin tăng đạo.
- Phong trì cốt: Chủ văn chương, tính ôn thuận.
- Liên phong cốt: Chủ quý.
- Hành sơn cốt: Gần quý hiển, thanh nhàn, giao du tăng đạo, nhà đông người hầu, có công danh nhưng không lớn.
- Thấu đính cốt: Chủ quý nhưng không yên ổn.
- Tả toàn giác cốt: Chủ công danh võ nghiệp.
- Lưỡng bách hội cốt: Chủ kiếm ăn xa, tiền tài từ bốn phương đổ về.
- Lưỡng hổ nhĩ cốt: Chủ dũng cảm oanh liệt.
- Lưỡng ngọc đường cốt: Trường thọ, nhưng về già có thể gặp khó khăn (tắc hãm).
Về trán cũng chia làm 33 loại khác nhau: (Một số loại tiêu biểu)
- Nhật giác: Gần bậc tôn quý, tổ tiên vinh hiển.
- Nguyệt giác: Gần bậc tôn quý, bà nội vinh hiển.
- Phục tê: Đại quý.
- Phụ chủng cốt: Điềm mộ tổ phong thủy tốt, cố nội có quyền thế.
- Thanh lăng cốt: Thanh danh hiển hách, cao quý, nhàn hạ, giao du tăng đạo.
- Phòng tâm cốt: Hiển đạt về văn chương, nghệ thuật.
- Nội phủ cốt: Chủ tài lộc, hiển quý, quan tước lớn.
- … (và nhiều loại cốt khác liên quan đến tính cách, sự nghiệp, gia đình, thọ mệnh như Lưỡng quyết môn, Cửu quá, Biên địa, Sơn lâm, Trung chính, Ngọc linh, Phó mi, Long giác, Cương cốt, Chiến đường, Tư không, Thiên trung, Thiên đình, Ấn đường, Sơn căn, Quyền cốt, Mệnh môn, Hiệp cốt, Kiên cốt, Thọ cốt, Vị hạn, Địa các, Hổ nhĩ…) mỗi loại đều có ý nghĩa riêng về vận mệnh.
2. Ưu Hỉ Kiến Ư Hình Dung
Từ xưa đến nay, lo lắng và vui vẻ đều biểu hiện ở dung mạo (khí sắc).
Những chuyện vui buồn chưa xảy ra nhưng khí sắc trên mặt đã có thể báo trước. Điềm tốt thì khí sắc tươi vui, điềm xấu thì khí sắc u ám. Ý nghĩa cơ bản của các màu sắc:
- Xanh: Lo lắng, sợ hãi, nghi ngờ.
- Đỏ: Tranh cãi, thị phi miệng lưỡi.
- Trắng: Khóc lóc, tang sự.
- Đen: Chết chóc, tang ma, bệnh tật.
- Vàng: Vui mừng, may mắn.
Quan sát khí sắc cần tinh tế, ví như con tằm nhả tơ, con ong làm mật. Nên xem từ Chuẩn đầu lên Thiên đình, rồi đến Ấn đường, Nhân trung, Địa các, vùng quanh mắt và lông mày. Khi các vùng quan trọng như Chuẩn đầu, Thiên đình, Ấn đường xuất hiện màu sắc bất thường, tai họa có thể đến rất nhanh (trong vòng 5 ngày).
Sách Ca viết về sự tương ứng giữa màu sắc và ngũ hành, mùa tiết:
- Xanh (Mộc) – Hợp mùa Xuân.
- Hồng/Tím (Hỏa) – Hợp mùa Hạ.
- Trắng (Kim) – Hợp mùa Thu.
- Đen (Thủy) – Hợp mùa Đông.
- Vàng (Thổ) – Tốt quanh năm.
Nếu khí sắc hợp với mùa thì tốt, nếu nghịch mùa thì xấu:
- Xuân kỵ Trắng (Kim khắc Mộc), Vàng (Thổ tù). Hợp Xanh (vượng), Đen (Thủy sinh Mộc).
- Hạ kỵ Đen (Thủy khắc Hỏa), Trắng (Kim tù). Hợp Hồng (vượng), Xanh (Mộc sinh Hỏa).
- Thu kỵ Đỏ (Hỏa khắc Kim), Xanh (Mộc tù). Hợp Trắng (vượng), Vàng (Thổ sinh Kim).
- Đông kỵ Vàng (Thổ khắc Thủy), Đỏ (Hỏa tù). Hợp Đen (vượng), Trắng (Kim sinh Thủy).
Sách Quy giám viết: Khí sắc luôn biến đổi, có lúc to nhỏ, căng co, không cố định. Đôi khi khí sắc tươi tốt lại báo điềm hung, hình dung khô xác lại báo chuyện lành, cần tùy hoàn cảnh mà xét. Khí sắc phát sinh từ ngũ tạng, hiện ra mặt vào buổi sáng và trở về tạng vào buổi tối.
- Hình dạng khí sắc: Có khi rõ khắp mặt, có khi nhỏ như sợi tơ, hạt gạo, hạt bụi; có khi hiện ở chân lông, mạch máu.
- Diễn biến:
- Xanh: Xanh biếc thắm là tang cha mẹ. Xanh nhạt hòa là lo âu hoạn nạn. Nhạt dần tan đi là hết lo.
- Trắng: Trắng sáng đẹp là có chuyện khóc. Trắng tươi nhuận là đại tang. Trắng phớt nhẹ là tiểu tang. Nhạt dần tan đi là tai họa qua.
- Đen: Đen u ám là bệnh tật, chết chóc, chiến tranh. Đen đậm là bị đánh đập hình phạt mà chết. Đen tối là bệnh nặng mà chết. Nhạt dần tan đi là tai họa qua.
- Đỏ: Điềm kinh hãi, lo sợ, kiện tụng, tranh đoạt, tù ngục (nếu đỏ đậm tươi). Đỏ khô xác là gia đình tranh chấp. Màu đỏ phức tạp, cần phân biệt do nóng giận, bệnh tật hay quan tụng.
- Vàng: Điềm vui mừng. Vàng đậm tươi là vui lớn. Vàng nhạt nhỏ là vui về vợ con. Vàng khô là hết vui.
- Tốc độ: Khí sắc hiện nhanh, đột ngột thì ứng nghiệm nhanh. Hiện chậm, từ từ thì ứng nghiệm chậm. Sắc đậm thì việc lớn, mạnh. Sắc nhạt thì việc nhẹ. Sắc tan dần thì việc không thành.
Mô tả sự hình thành và tiêu tán của khí sắc:
- Vàng: Mới hiện như tơ tằm, vượng như kén, tan như lá liễu vàng.
- Đỏ: Mới hiện như lửa nhen, vượng như lụa điều, tan như châu hồng lúc tụ lúc tán.
- Trắng: Mới hiện như tro khêu, vượng như phấn trang điểm, tan như tro bụi thấm nước.
- Đen: Mới hiện như lông quạ, vượng như lông đầu quạ, tan như bọt nước đen.
- Xanh: Mới hiện như màu đông xanh, vượng như lá non, tan như mây xanh xa.
Khí sắc và bốn mùa (chi tiết hơn):
- Xuân: Xanh (vượng), Đỏ (tương hòa), Trắng (chết), Vàng (tù), Đen (nghỉ).
- Hạ: Đỏ (vượng), Vàng (tương hòa), Đen (chết), Trắng (tù), Xanh (nghỉ).
- Thu: Trắng (vượng), Đen (tương hòa), Đỏ (chết), Xanh (tù), Vàng (nghỉ).
- Đông: Đen (vượng), Xanh (tương hòa), Vàng (chết), Đỏ (tù), Trắng (nghỉ).
Lưu ý: Màu vàng (Thổ) là nền tảng, nuôi dưỡng, nên đa phần là tốt. Khí sắc cần hợp với trạng thái mùa (Xuân rộng rãi, Hạ phát triển, Thu hạ xuống, Đông ẩn tàng).
Sách Ngọc quản chiếu thần luận bàn về Ngũ đái sát (5 tướng mang sát khí):
- Nhãn đái sát: Hỏa khí bốc đầy mắt.
- Thần đái sát: Mạch nhỏ dài đỏ, thần sắc hôn mê, trầm uất.
- Thanh đái sát: Tiếng như đánh thanh la.
- Tính đái sát: Thích giết chóc, hại người vật.
- Thể đái sát: Tứ chi, cơ quan có thương tật.
Người có tướng này tính tình hiểm ác, dễ chết bất thường hoặc gặp khốn khổ, tù tội.
Luận về Thiên la (khí sắc xấu bao trùm):
- Tử khí thiên la: Mặt nổi bốn phía sắc đen.
- Tang khốc thiên la: Khắp mặt hiện sắc trắng.
- Lo buồn thiên la: Khắp mặt xanh một màu.
- Tật bệnh thiên la: Cả mặt một màu vàng (vàng bệnh).
- Tửu thực thiên la: Khắp mặt như bôi dầu mỡ.
- Lao ngục thiên la: Mặt mày như say, như ngủ.
- Gian dâm thiên la: Ánh mắt láo liên, chớp nháy.
- Phá bại thiên la: Thần sắc khô xác như bị hơ lửa.
- Quỷ yểm thiên la: Cười nói không đúng lúc, vô lễ.
Sách Biện ngũ sắc sở thuộc cá: Vị trí quan sát màu sắc theo mùa:
- Xuân (Xanh): Thái dương, Trung dương, Thiếu dương (Tam dương bộ vị).
- Hạ (Đỏ): Ấn đường.
- Thu (Trắng): Niên thượng, Thọ thượng.
- Đông (Đen): Học đường.
Sách Chiếm Hanh đạt ca: Thượng dương bộ vị có màu hồng, tím; Âm vị có màu vàng nhạt; Chuẩn đầu sáng bình là điềm sống lâu, tốt lành.
Sách Chiêm tật quyết:
- Chuẩn đầu có điểm đỏ như máu: Bệnh phổi.
- Hai bên tai như có khói sương: Bệnh thận.
- Vùng Niên thượng có màu đỏ: Bệnh tim.
- Mắt có màu xanh: Bệnh gan.
Sách Chiêm hỉ bách nhất ca:
- Khắp mặt vàng bốc đầy: Được tước lộc cao.
- Vùng Nhật giác khí như mây bốc lên: Trong vòng 1 tuần (10 ngày) được phong khanh tướng.
- Chuẩn đầu vàng sáng: Vinh hoa cát tường hoặc phát tài.
- Ấn đường vàng nhạt, Thiên trung tím sáng, Long đầu liền Phượng vĩ: Thăng quan cao.
- Ấn đường có điểm vàng như tơ, Nam ly sáng tương ứng: Dương danh triều đình.
- Tỏ trạch, Tôn trạch, Huyền bích có màu vàng: Bản thân vinh quý, con cháu hưởng phúc.
- Dịch mã vàng: Có thể làm Thượng thư.
- Biên địa vàng: Lập võ công.
Điềm xấu:
- Chuẩn đầu xuất hiện màu lo âu: Gặp rắc rối cửa công.
- Màu xanh vào Khẩu giác: Bệnh tật qua đời (vong hồn).
- Đuôi mắt xanh nối tiếp đen (phụ nữ): Lo buồn, hoạn nạn. Thêm tà khí thì chết. Xen sắc đỏ càng nguy hiểm.
- Mặt sắc xanh ngày càng đậm: Tai họa vào mùa hạ, thu.
- Sắc xanh quy tụ về Khẩu giác: Thân mắc bệnh trọng qua đời.
- Mặt sắc trắng rõ rệt (vào mùa thu thì bình thường): Nếu tụ ở lông mày, trán, chạy về Thượng phát thì có chuyện buồn đau dồn dập, tai nạn. Nếu sắc này ngưng tụ không tan thì tai họa khó tránh.
3. Hối Hận Sinh Ư Động Tác Chi Thủy
Hối hận cùng với tiếc thương, đều theo thời gian mà bắt đầu bằng động tác.
Khi điềm lành dữ chưa rõ, người ta khó biết trước để tìm lợi tránh hại. Sách Dịch nói: “Hối hận, tiếc thương, điều lành, điều dữ đều sinh ra từ động tác”. Hành vi, cử chỉ, đi đứng, ăn nói, nằm ngồi… đều phản ánh phần nào vận mệnh và tính cách.
Sách Ngọc quản chiếu thần luận ghi: Bậc quý nhân đi như mây bay nhẹ nhàng, ngồi vững như đá lớn, chính trực, thuần hậu. Ăn nói cẩn thận, tính tình khoan hòa, nhàn nhã. Trương Cảnh Tạng nói: Ngồi một mình uy nghi như đá lớn, quan vị cao, con cháu vinh hiển.
Sách Nhân luận quần giám chép: Khi nói chuyện mà toàn thân không động đậy (trừ lúc cần thiết), đi thẳng như rồng bay hổ chạy là tướng tốt. Ví dụ Tào Tháo thử tướng “sói quay đầu” của Tư Mã Ý, thấy ông quay mặt lại mà thân không động, liền nói với Tào Phi rằng Tư Mã Ý không phải kẻ chịu ở dưới người khác. Quả nhiên sau này họ Tư Mã lập nên nhà Tấn.
Sách Tâm kính viết:
- Cử chỉ như rồng bay hổ chạy: Đạt ngôi vương công.
- Dáng đi như ngan vịt: Khó nhọc tích lũy của cải.
- Dáng ăn như bò dê nuốt cỏ: Của cải phong phú.
- Mày tóc thanh tú, mắt linh hoạt, ngồi như hổ rồng ẩn mình, không nghe tiếng thở: Quý tướng, thọ tướng.
Tướng tiện bỉ, xấu:
- Ăn uống rơi vãi, luộm thuộm.
- Đứng ngồi nghiêng ngả, tà vạy.
- Nằm ngủ lảm nhảm, không yên.
- Đi đứng như thây ma.
- Hơi thở lộ rõ.
- Ngủ hay trở mình.
- Nói năng không thành lời, chảy nước dãi.
- Lắc đầu xua tay, thở ngắn than dài.
- Lưng nhỏ như ong, đi lại chao đảo vội vàng.
- Hơi thở ngắn, nhỏ.
- Tiếng nói khô, rít.
Bạch Vân Tử nói: Lưng ong, bước đi vội vàng nghiêng ngả, vai so lại như sợ lạnh là tướng khổ sở.
Lại nói:
- Giọng khô rít: Không có tài lộc.
- Giọng nhỏ nhẹ: Không có quyền thế.
- Giọng nhỏ nhẹ, khô rít: Đói rách.
- Chuẩn đầu hay ra mồ hôi, đi chân nghiêng ngả không chạm đất, đầu nhô về trước: Không phải tướng tốt.
- Mũi dài: Tham lam, keo cú.
- Ngực rộng: Tham lam.
- Ngồi mà đầu gối và thân người lắc lư: Người nông cạn.
- Dáng vẻ không cung kính, lễ phép: Hành vi không cẩn thận.
- Cười nói ngọt ngào, mắt xinh tươi (không đúng lúc): Hạng người xiểm nịnh, lọc lừa.
Sách Ca viết: Đi tay múa như rắn, đầu cúi, giọng như đàn bà: Gian trá, hư ngụy hoặc hung hãn vô tình. Mắt là cửa sổ tâm hồn, biểu hiện nội tâm gian tà. Nằm ngủ yên tĩnh là tướng sống lâu. Ăn uống không tiết chế, tính thô bạo, hình thể không hòa hợp là tướng xấu. Ăn uống cẩn thận, từ tốn là phúc tướng, thọ tướng.
Sách Ca viết:
- Không nói không cười (đúng lúc): Người thâm sâu.
- Tùy lúc nói cười không câu nệ: Người chính trực.
- Vừa khóc vừa giận vừa chửi, môi mỏng miệng nhọn: Không chân thực.
4. Thành Bại, Tại Ư Quyết Đoán Chi Trung
Thành công hay thất bại, đều quan hệ ở trong lúc quyết đoán.
Thành bại là chuyện được mất. Khi tính toán công việc, sự quyết đoán là yếu tố then chốt. Người xưa nói: “Đương đoán bất đoán, phản chiêu hồ loạn” (Lúc cần quyết đoán mà không quyết đoán, ngược lại sẽ rước lấy thất bại). Cơ hội qua đi nếu không quyết đoán kịp thời, sáng suốt.
Việc Đường Cử đoán sai tướng Sái Trạch, người nước Trịnh nhận sai tướng Khổng Tử, đều do học thức chưa đủ sâu. Người xưa khuyên: “Quan sát con người trước tiên phải xem Tam đình (thượng, trung, hạ), sau đó nhìn kỹ Thái âm, Thái dương (hai bên mắt), xem tinh thần, khí sắc. Từ đó mới đưa ra phán đoán lớn hơn.”
Kết hợp quan sát Ngũ hành (tương sinh, tương khắc), nghe giọng nói, nhìn hình thể, cảm nhận khí sắc để định cát hung, quý tiện. Bậc thầy tướng thuật có thể chỉ cần nghe giọng, nhìn khí sắc hoặc xem cốt tướng là đủ. Nếu kết hợp tất cả, việc xem xét trăm người không sai một là điều có thể.
5. Khí Thanh, Cốt Xấu, Tuy Tài Cao Nhi Bất Cửu
Thần khí thanh cao, đẹp đẽ, nhưng cốt yếu ớt, tuy là tài hoa tột cùng đi nữa cũng không thể bền, trường thọ.
Đây là trường hợp “Hình thần bất túc” (Hình thể và tinh thần không đủ đầy, không tương xứng). Người có tướng này trông như có bệnh dù không bệnh, thường rất tài hoa về văn chương nhưng khó sống lâu.
Sách Ngọc quản chiếu thần luận ghi: Đá quý ẩn trong núi bị sương khói che phủ, ngọc quý dưới nước bị sóng nước che lấp. Cái quý bên trong được biểu hiện (và che giấu) bởi cái đẹp bên ngoài. Hình là chất, khí đầy đủ cũng là chất. Hình do khí mà thành, thần do chất mà yên. Người có phúc là người không bị việc được thua làm cho bạo ngược, không bị vui buồn làm cho kinh động, có lòng bao dung (hữu dung), có chừng mực (hữu độ), hậu trọng.
- Hình ví như cây gỗ (có loại tốt xấu khác nhau).
- Thần ví như người thợ đẽo gỗ thành khí cụ.
- Khí ví như con ngựa để cưỡi đi.
Người quân tử biết dùng gỗ tốt, thợ giỏi, làm ra khí cụ tốt, điều khiển ngựa giỏi. Kẻ tiểu nhân thì ngược lại.
Khí độ cần khoan hòa (dung vật), ôn thuần (dưỡng vật), kiên nghị (chế vật), sáng suốt (lý vật), nghiêm chính (khiến vật cung kính). Ngược lại là hẹp hòi, bạo ngược, mê tối, tà vạy. Quan sát khí chất, thần sắc có thể phân biệt quân tử, tiểu nhân. Cốt cách ung dung, sâu sắc, ôn hòa là phúc tướng, thọ tướng. Thần sắc hung bạo, vội vàng là tiểu nhân.
Sách Quần phẩm quảng giám viết: Xem sơn căn và ấn đường có khí xanh bốc lên thì sớm lìa trần (hồn li).
Sách Nhận nhân luận viết: Khí đen bốc lên bốn phía mặt là tử khí thiên la. Quản Lộ nói: Hồn không yên trong thân, huyết không tươi, tinh thần như mây nổi, dung mạo như cây khô là tướng hồn u.
Sách Bá Nhạc kinh chép: Hình thể tốt nhất là cao lớn nhưng không béo phì. Cao lớn là vinh hoa phú quý, béo phì (quá mức) là điềm chết sớm. Gân cốt già dặn mà dung nhan tươi non thì khó qua tuổi 36. Thiếu niên phát phì, hơi thở ngắn nông, da căng bóng mà sống tới 40 là hiếm.
Sách Thần giả chép: Không say mà như say, không buồn mà ra dáng buồn, không sợ mà tinh thần bất định, dù có phú quý cũng khó qua tuổi trung niên.
Trần Đồ Nam nói: Lông mày dài nối liền qua Ấn đường là điềm chết yểu trước 40 tuổi, còn hại vợ con. Lông mày giao nhau che khuất Ấn đường là người không có tài (tiền tài hoặc tài năng tùy ngữ cảnh) và không thọ. Khí sắc đơn bạc, cơ hàn thì khó có tài lộc và trường thọ.
Trần Huấn nói: Dịch mã không bằng phẳng, Biên địa hẹp hãm thì thọ mệnh không dài.
Sách Động nguyên kinh chép: Khí có nội khí và ngoại khí. Tản ra như khói mù, tụ lại như lông tóc, hiện trên da thịt với năm màu (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen). Khí của bậc quân tử phát từ đan điền, hơi thở sâu dài, dưỡng nuôi dài lâu, sinh phát thâm hậu. Khí của kẻ tiểu nhân phát từ ngực, hơi thở ngắn nhanh như khỉ chuột, hấp thụ ít, dưỡng nuôi mỏng manh, không thể trường thọ. Ví dụ Nhan Hồi, học trò giỏi của Khổng Tử, dung mạo tươi đẹp nhưng tiếng nói nhỏ yếu, Ngọc lương Thọ cốt ngắn mỏng, ngũ tạng không hư (có thể là yếu), nên không sống lâu.
6. Thần Cường Cốt Tráng Bảo Hà Toán Dĩ Vô Cùng
Tinh thần khỏe khoắn, hưng vượng, cốt cách cường tráng, thì có thể giữ được sự trường thọ đến vô cùng.
Thọ yểu của con người phản ánh qua thần khí, mà thần khí lại căn cứ vào xương cốt. Nếu cả thần khí và cốt cách đều mạnh mẽ, hưng vượng thì chắc chắn sống lâu.
Sách Trửu hậu ghi: Cốt cần được nuôi dưỡng. Tinh thần thâm hậu, thuần tĩnh thì khỏe mạnh, trường thọ.
Sách Thần giải chi chép: Thần sinh từ hư không, hóa thành khí, lại do cốt sinh ra. Cốt là nền tảng của thân thể. Muốn bảo toàn hình thể, phải điều khiển được tinh thần. Tinh lực sung mãn, khí chất ổn định, tinh thần hài hòa. Huyết khô khí tán, thần sẽ tiêu vong, ngoại hình khô kiệt, gân cốt ly tán, dẫn đến yểu mệnh.
Sách Tam bổ tân thư ghi: Thần bất biến, khí có lúc vượng suy. Khí xuất hiện, hình tạo ra, thần yên định. Khí và tướng giao hòa, hình thể trưởng thành.
Sách Chú giải viết: Thần có nơi trú ngụ (ngộ – tàng trong mắt, mị – yên nghỉ trong lòng). Thần không sinh không diệt trong vòng biến hóa. Những đạo nhân xưa giác ngộ lẽ huyền diệu của thần khí, hòa mình với tự nhiên nên trường sinh. Đạt tới mức độ cao là thánh nhân, thấp hơn là hiền nhân. Thần vận động trong lòng là linh hồn, biểu hiện qua đôi mắt.
Các cấp độ của Thần:
- Cổ (Thượng đẳng): Không cần động mà vẫn uy nghi.
- Thanh: Ánh mắt lấp lánh, đường hoàng.
- Tú: Cao khiết, tiêu sái, khiến người yêu mến nhưng không quá lớn lao.
- Tàng: Rộng rãi, khoan hòa, trầm tĩnh, như đang biến hóa.
- Mị: Sáng láng, sạch sẽ, không bị kiềm thúc. (Tuy quý nhưng dễ a dua, chức vị không bền).
Ngoài ra là thần trí hôn trọc, bẩn thỉu, nhìn ngửa nghiêng, tà vạy, khiếm khuyết. Mắt trắng dã, nhiều mạch máu đỏ, ánh mắt như si như say, như bệnh tật, khốn khó là tướng bần tiện, hung ác, dễ tù tội. Thần khí có thể phân biệt qua khí sắc và đôi mắt. Mạnh Tử xem người qua tròng mắt sáng tối để biết tà chính.
Quản Lộ nói: Tinh thần khiếp nhược, như sợ như say, thọ mệnh khó qua 40, làm việc không thành.
Bạch Các Đạo giả nói: Người dương hình kỵ nhẹ nổi; người âm hình kỵ cuồng vọng. Mặt có vằn thường tính tình khác thường, thiếu thần khí, dù có quan chức tài lộc cũng không bền.
Trần Hi Di (Trần Đoàn) nói: Người dương hình dương tận thì hết đời, người âm hình âm hư thì mệnh gãy. Âm hình cần thanh tú sáng sủa, dương hình cần đẫy đà to lớn. Hai hình không nên đối kháng thì mới thọ.
Sách Nhân nhân luận: Phục tê cốt (giữa Ấn đường và Tư không) nổi lên như móng tay. Thiên lương cốt (từ Thiên trung tới đỉnh đầu).
Sách Linh nhạc kinh: Người có Phục tê cốt kéo dài tới Thiên lương cốt (từ Ấn đường lên đỉnh đầu) là trường thọ. Nếu có Văn tinh trợ giúp thì trung niên làm quan to.
Sách Linh bí luận: Hai hàm răng đều đặn như đá xếp khít, lưng như tam giáp (mai rùa), bụng như tam nhâm (đầy đặn) là cốt cách trường thọ.
Nguyệt ba động trung ký nói: (Câu này trong nguyên bản có vẻ khó hiểu, ghi chú là “ở dưới cùng mà xuất hiện những hoa văn, nhăn nhúm vậy ???!!!!”)
7. Nhan Như Quan Ngọc
Dung nhan đẹp như ngọc vậy.
Quan ngọc là ngọc đẹp. Nhan sắc không phải cứ xanh đen là tiện, trắng hồng là quý, mà cốt ở vẻ đẹp ôn nhuận như ngọc. Mặt sáng sủa, trong sạch, ôn hòa, không tì vết là quý tướng, nhưng không được nhu nhược.
Sách Quỷ Cốc Tử nói: Khí sắc nhu nhược là người ốm yếu, dù to cao cũng khó thọ. Hai tai trắng hơn mặt, tiếng nói vang xa rõ ràng thì phẩm cách cao quý, có thể đỗ đạt làm quan. Mặt mày như chùi dầu mỡ là tướng mộc dục, thiên la, không tiến xa được.
Trần Hi Di nói: Nhan sắc như hoa mùa xuân, chóng nở chóng tàn, đẹp nhất thời rồi suy thoái.
Ví dụ Trần Bình, người đời Hán, có dáng đẹp như ngọc, được Giáng Hầu Chu Bột và Dĩ Âm Hầu Quán Anh khen ngợi. Sau này ông làm tới Thừa tướng.
Dung mạo quá đẹp, quá tươi tắn cũng là bất thường. Ngoại hình không cần quá nghiêm nghị, nhưng khí sắc không được nhu nhược, vì nhu nhược dễ yểu mệnh.
8. Thanh Nhược Kích Chung
Giọng nói chẳng khác gì tiếng chuông.
Tiếng chuông vang xa, dư âm lâu dứt. Giọng nói tốt phát ra từ nguyên khí (đan điền), sâu lắng, dài, vang xa, lớn. Giọng nông, ngắn, khô rít, như vật vỡ là tướng hạ tiện, đoản thọ.
Sách Ngọc quản chiếu thần luận chép: Quý nhân nói tiếng như chuông, lớn vang xa. Người nhỏ tiếng nhỏ. Thần trong sáng thì khí hòa yên, tiếng rõ ràng tươi nhuận. Thần tối tăm thì khí không đủ, tiếng không đều, yếu nhỏ. Tiếng nói của quý nhân xuất từ đan điền, thông tâm khí, nên rõ ràng, mạnh mẽ, truyền xa. Tiếng của tiểu nhân từ đầu lưỡi, vội vàng, nhỏ, không truyền xa.
- Đàn ông giọng đàn bà: Cô độc, bần cùng.
- Đàn bà giọng đàn ông: Gặp trở ngại, tổn hại.
- Hình nhỏ tiếng lớn: Cát tường.
- Hình lớn tiếng nhỏ: Không hay.
- La võng thanh: Tiếng khô rít, không gọn.
- Thư hùng thanh: Tiếng to nhỏ không đều.
- Tiếng nói lúc nhanh lúc chậm bất thường, hơi cạn dần, nói không ra hơi: Tiểu nhân hạ tiện.
Năm loại thanh âm theo Ngũ hành:
- Thổ âm (Cung thanh): Thâm trầm, hậu trọng (không nông cạn, không mỏng), mạnh mẽ từ cổ họng.
- Mộc âm (Giốc thanh): Cao, bay bổng, lưu loát, du dương, hòa hợp.
- Hỏa âm (Chủy thanh): Khô, mãnh liệt như lửa cháy, nông cạn, bạo liệt (Độc hỏa thanh – điềm xấu).
- Kim âm (Thương thanh): Ôn hòa, nhuận trạch (không gay gắt, không khô), như tiếng gõ đồ đồng, sênh, la, khánh.
- Thủy âm (Vũ thanh): Trong sáng, tròn trịa, tươi tốt.
Sách Ca nói: Mộc thanh cao du dương, Hỏa thanh quyết liệt, Kim thanh ôn hòa nhuận trạch không non nớt, Thổ thanh như tiếng trong vò chum sâu thẳm bay bổng. Quý nhân tiếng từ đan điền, khí đủ mạnh mẽ trong sáng. Kẻ bần khốn tiếng từ đầu lưỡi, đời lao lực.
Sách Thông thiên kinh: Hình nhỏ tiếng lớn, nói chuyện cách sông vẫn nghe thấy, có thể đi nghìn dặm một ngày (ý chỉ năng lực phi thường).
Sách Quy giám: Tiếng nói tốt là truyền xa không tán, gần nghe rõ ràng. Không cạn ngắn, không yếu ớt. Sâu xa mà đầm ấm, to lớn không ô trọc. Tiềm tàng mà rõ ràng. Nhỏ nhưng thanh rõ, không líu ríu. Dư âm vang vọng như sênh chuông. Thâm trầm tươi tắn là cát tường, thọ, có tài lộc quan tước.
Tiếng nói không tốt (ố thanh): Thô trọc, phát tán, nhỏ quá, khô sít, tạp loạn, hết hơi, như hổ báo gầm, phát từ đầu lưỡi to không đẩy hơi ra được. Là tướng ti tiện, hỗn tạp. Tiếng nói thể hiện tinh thần ngũ tạng. Thanh âm không tốt dễ gặp chuyện chẳng lành (hình ngục ách). Đàn ông khó bảo toàn gia đình, phụ nữ khó giữ miếng cơm. Tiếng trung bình thì không họa không phúc. Cần phối hợp ngũ hành, cung thương, âm dương để đoán cát hung.
Phân biệt Cung và Thương (đều là Bình thanh):
- Cung thanh: Phát âm miệng mím, thu hơi vào.
- Thương thanh: Phát âm miệng mở to, tống hơi ra.
Tương ứng Màu sắc – Mạng – Thanh:
- Trắng – Kim – Thương thanh
- Vàng – Thổ – Cung thanh
- Xanh – Mộc – Giốc thanh
- Đỏ – Hỏa – Chủy thanh
- Đen – Thủy – Vũ thanh
Sự phối hợp giữa Hình (mạng) và Thanh: (Ví dụ với người Cung hình – mạng Thổ)
- Hợp Thương thanh (Kim) tốt: Con cháu nhiều, thịnh vượng, tôn quý (Thổ sinh Kim).
- Nếu Thương thanh bất thiện: Con cái không hiếu thuận, hung bạo, bệnh tật, hiếm muộn.
- Hợp Giốc thanh (Mộc) tốt: Thăng quan tiến chức.
- Nếu Giốc thanh bất thiện: Họa lao ngục (Mộc khắc Thổ).
- Hợp Chủy thanh (Hỏa) tốt: Lợi cho con cháu, bảo toàn cha mẹ (Hỏa sinh Thổ).
- Nếu Chủy thanh bất thiện: Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, hoặc bị cha mẹ nghiêm khắc (Hỏa đại diện mẹ, khắc Kim đại diện cha).
- Hợp Vũ thanh (Thủy) tốt: Vợ hiền, nô tốt, đại phú (Thổ khắc Thủy – Thủy là tài của Thổ).
- Nếu Vũ thanh bất thiện: Vợ con không ra gì, không gia sản, vợ con chết yểu.
Giọng nói tốt mang lại phú quý, trường thọ, yên ổn. Giọng nói xấu (tàn độc) thì hành động cũng vậy, dễ què cụt, ốm đau.
Tiếng nói giống loài vật:
- Bồ câu: Nhân từ.
- Quạ: Xảo trá, mưu mẹo (hợp làm thư lại, thầy cò).
- Ưng mặt mèo: Ác độc, bất hiếu.
- Lừa: Dâm tà.
- Trâu: Cẩn thận.
- Lạc đà: Cao ngạo, phú quý.
- Voi: Trường thọ, phú quý.
- Dê: Bần tiện.
- Sói: Tàn ác, nhẫn tâm.
- Lợn: Nghèo khó, dâm tà.
- Ngựa: Dũng mãnh, cao quý.
Nghe tiếng nói có thể đoán được phần nào tính cách, vận mệnh. Cần phân biệt các đặc tính của tiếng nói: dài/ngắn, cao/thấp, ngang/chìm, sâu/nông, thô/tế, tán/phá, nhanh/chậm, thẳng/quanh, vui/buồn, đầy đặn/hư không, khiếp nhược… để phán đoán cát hung. Ví dụ: người Cung hình, Thương thanh tốt, tiếng vui vẻ -> sắp sinh quý tử. Cung hình, Giốc thanh xấu, tiếng bi thương -> sắp mất chức. Cung hình, Vũ thanh xấu, có tiếng Thượng tù -> vợ/đầy tớ/gia súc chết (tù nặng thì vợ chết, nhẹ thì đầy tớ chết/vợ con bệnh).
9. Tứ Độc Tu Nghi Thâm Thả Khoát
Cả bốn con sông, đều cần phải vừa sâu vừa rộng.
Tứ độc (Bốn dòng sông trên mặt) tượng trưng cho bốn con sông lớn của Trung Hoa:
- Tai: Sông Giang (Trường Giang)
- Miệng: Sông Hà (Hoàng Hà)
- Mắt: Sông Hoài (Hoài Hà)
- Mũi: Sông Tế (Tế Thủy)
Cả bốn bộ vị này cần sâu rộng, cao đầy, có đường nét rõ ràng, không bằng phẳng, tù đọng hay khuyết hãm.
- Mắt: Lớn, sáng, long lanh là có tài trí, quyền lực. Mắt ngắn nhỏ là không tốt.
- Mũi: Lớn, cao thẳng là kho trời, kho người dồi dào, có của cải, quyền chức. Mũi nhỏ là không tốt.
- Miệng: Môi đầy đặn, đỏ tươi là nhiều tài lộc. Miệng rộng (có thể đút vừa nắm tay) là tướng công hầu. Miệng nhỏ là không tốt.
- Tai: Cần có thành quách rõ ràng, dái tai dài, hướng về miệng là tướng sống lâu.
10. Ngũ Nhạc Tất Yếu Khung Dữ Long
Ngũ nhạc tất cần phải vừa cao vừa to.
Ngũ nhạc (Năm ngọn núi trên mặt) tượng trưng cho năm ngọn núi thiêng:
- Trán: Nam Nhạc Hành Sơn
- Mũi: Trung Nhạc Tung Sơn
- Cằm: Bắc Nhạc Hằng Sơn
- Xương quyền trái: Đông Nhạc Thái Sơn
- Xương quyền phải: Tây Nhạc Hoa Sơn
Ngũ nhạc cần cao lớn, đầy đặn, có khí thế uy nghi, đẹp đẽ. Xương trán cần nổi cao dựa vào Thiên thương. Mũi cần to lớn, cao thẳng, Chuẩn đầu không sụp lở. Cằm cần đầy đặn, nhô ra. Xương quyền cần tròn đầy hoặc vuông vắn cân đối.
Sách Vạn kim bí ngữ nói: Trán (Nam Nhạc) như trăng tròn. Quyền trái (Đông Nhạc) tròn như trứng gà. Quyền phải (Tây Nhạc) vuông như bạc trắng. Mũi (Trung Nhạc) cao to. Cằm (Bắc Nhạc) đầy đặn, nhô ra như cánh chim. Ngũ nhạc toàn vẹn, các bộ vị khác tốt thì có quan tước, bổng lộc, tôn quý.
11. Ngũ Quan Yếu Minh Lương Nhi Đoan Chính
Ngũ quan cốt yếu phải sáng sủa, ngay thẳng.
Ngũ quan bao gồm:
- Mắt (Giám sát quan): Cơ quan quan sát, thể hiện thần thái, uy lực.
- Lông mày (Bảo thọ quan): Liên quan đến thọ mệnh, tình cảm anh em. (Lưu ý: Sách gốc ghi Nhân trung là quan thứ 5, nhưng nhiều trường phái liệt kê Lông mày. Ở đây theo bản gốc ghi Nhân trung, nhưng bổ sung ý nghĩa phổ biến của Lông mày).
- Tai (Thái thính quan): Cơ quan nghe ngóng, tiếp nhận thông tin.
- Mũi (Thẩm biện quan): Cơ quan phân biệt mùi vị, chủ về tài lộc, bản ngã.
- Miệng (Xuất nạp quan): Nơi ăn nói, thu nạp, thể hiện phúc lộc, ngôn ngữ.
(Một số tài liệu khác định nghĩa Ngũ quan khác nhau, ví dụ Nhân trung thay cho Lông mày).
Cả năm quan này cần sáng sủa, rõ ràng, ngay thẳng, không nghiêng lệch, khuyết tật.
- Mắt sáng, có uy lực.
- Mũi cao quý, trán đầy thẳng là có quyền chức.
- Miệng có góc cạnh, môi trên như cung, môi dưới như vành trăng là có quyền.
- Nhân trung (rãnh giữa mũi và môi) sâu, rõ ràng là điềm thọ và quyền chức.
- Tai có thành quách, dày dặn, màu sắc tươi sáng là điềm thọ.
12. Lục Phủ Dục Kỳ Thực Nhi Sung
Lục phủ cần phải đầy đặn nhưng rắn chắc.
Lục phủ bao gồm sáu vùng xương trên mặt, thể hiện nền tảng tài lộc và phúc khí:
- Hai phủ trên: Vùng xương từ hai bên góc trán (Phủ giác) kéo đến thái dương (Thiên thương).
- Hai phủ giữa: Vùng xương quyền (từ Mệnh môn – gần tai, đến Hổ nhĩ – gò má).
- Hai phủ dưới: Vùng xương quai hàm (từ Kiên cốt – góc hàm, đến Địa các – cằm).
Lục phủ cần đầy đặn, cân đối, rắn chắc, không khuyết hãm, không lẻ loi đơn độc. Nền tảng Lục phủ tốt đẹp báo hiệu tài vận hưng vượng. Thiên thương cao thì nhiều tài lộc. Địa các vuông vắn, đầy đặn thì có điền sản. Địa các lõm khuyết là không tốt.
13. Nhất Quan Thành, Thập Niên Quý Hiển
Chỉ cần một bộ vị nào đó (trong Ngũ quan) thật tốt, thì cũng đủ mười năm bổng lộc tốt.
Nếu một trong năm ngũ quan (mắt, mũi, miệng, tai, nhân trung/lông mày) có đặc điểm cực kỳ tốt đẹp, nổi trội, thì người đó có thể hưởng được sự quý hiển, danh vọng trong khoảng mười năm.
14. Nhất Phủ Tựu, Thập Tải Phú Phong
Chỉ một phủ (trong Lục phủ) tốt đẹp, cũng đủ hưởng mười năm giàu có.
Tương tự, nếu một trong sáu vùng lục phủ (Thiên thương, xương quyền, xương hàm hai bên) đặc biệt đầy đặn, cân đối, thì người đó có thể có được sự giàu có, sung túc trong khoảng mười năm.
Ví dụ về vận hạn qua các bộ vị:
- Thiên thương đầy đặn là tốt, ngược lại là xấu.
- Mi mắt trái (từ đầu đến đuôi) quản 2 năm vận mệnh. Mi mắt phải cũng vậy. Lông mày không rậm, mắt đẹp quyết định 10 năm cát tường.
- Mắt phải quản 3 năm, mắt trái quản 3 năm. Cả mi và mắt quản 10 năm.
- Từ Sơn căn đến Chuẩn đầu (sống mũi), nếu Lương tiết cốt (xương sống mũi) cao dày, Chuẩn đầu đầy đặn thì tốt đẹp 15 năm. Cộng với mi và mắt là 25 năm tốt. Ngược lại là xấu.
- Nhân trung, Hải huyệt (miệng), Thừa tương (chỗ lõm dưới môi), Địa các (cằm) và Hạ hàm (xương hàm dưới) đầy đặn, sáng sủa, rộng rãi là điềm 25 năm cát tường cuối đời. Ngược lại là xấu.
- Lông mày quản 5 năm, tai quản 15 năm… cộng lại có thể dự đoán vận trình cả đời.
15. Phòng Huyền Linh Long Mục Phượng Tình, Tam Thai Liệt Vị
Phòng Huyền Linh mắt rồng, con ngươi phượng vì vậy làm quan to trong triều đình, giúp nhà vua coi giữ việc quốc gia (Tam Thai tương tự Tam Công).
Phòng Huyền Linh, người đời Đường, làm quan đến Trung thư lệnh. Tướng của ông được mô tả là có mắt rồng (long mục), con ngươi phượng (phượng tình), xương ngọc chẩm đầy đặn. Đây là tướng đại quý, làm quan lớn, vinh hoa phú quý. Mắt phượng là mắt có phần đầu tròn đầy, đen trắng rõ ràng, có thể có những đường vân đẹp trong tròng đen, ánh mắt sắc sảo, biểu thị sự thông minh, tài văn chương xuất chúng.
16. Ban Trọng Thang, Yến Hạm Hổ Cảnh, Vạn Lý Hầu Phong
Ban Trọng Thang (tức Ban Siêu) hàm én, cổ hùm lập nên công nghiệp ở nước xa xôi, vì vậy được phong Vạn Lý hầu.
Ban Siêu, người đời Hán, được Hứa Phụ xem tướng nói có cằm én (yến hạm – cằm rộng, đầy đặn), cổ hùm (hổ cảnh – cổ to khỏe), là tướng lập nghiệp nơi xa, có thể được phong hầu ngoài ngàn dặm. Quả nhiên, ông được phong tước Định Viễn hầu do công lao trấn giữ biên cương. Tướng này chủ về hậu vận tốt đẹp, quan lộc lớn vào tuổi già.
17. Anh Mâu Hề Kích Diện
Hai con mắt đẹp đẽ giống như có ánh điện lấp lánh.
Anh mâu chỉ đôi mắt có thần quang rực rỡ, sáng như ánh điện, đầy vẻ trang nghiêm và uy lực. Mắt sáng như mắt chim ưng là tướng phú quý, thể hiện thần thái mạnh mẽ, tỏa ra ngoài.
18. Hào Khí Hề Thổ Hồng
Khí tốt đẹp mạnh mẽ khác nào ánh sáng cầu vồng.
Đây là chỉ khí chất của bậc anh hùng hào kiệt, lời nói lỗi lạc, chí khí hiên ngang. Giống như ngọc quý ẩn trong đá, vàng ròng trong khoáng thô, khí chất tốt đẹp bên trong vẫn tỏa sáng ra bên ngoài như cầu vồng rực rỡ.
19. Nhược Phú Tính Thô Ác, Họa Tất Cập
Một con người mà phẩm tính thô bạo, hung ác, nhất định sẽ nhanh gặp tai họa.
Người có bản tính hung ác, thể hiện qua các tướng xấu như Thiên thương, Phúc đức (bộ vị liên quan) thô trọc, mắt không có đầu đuôi rõ ràng, lông mày xấu, dáng vẻ như chuột rắn, giọng nói như sói tru, tinh thần hoảng hốt, hung bạo, xương đầu khuyết hãm, mắt trắng dã nhiều tia máu đỏ, ánh mắt như quỷ ám, ăn nói lộn xộn… thì khó tránh khỏi tai họa, chết yểu hoặc cuộc đời gian nan, khốn đốn.
20. Như Tu Đức Dịch, Lộc Vĩnh Chung
Nếu như cẩn thận trong việc tu dưỡng đạo đức thì sẽ giữ được bổng lộc địa vị lâu dài.
Người biết chăm lo tu dưỡng đạo đức, cẩn thận trong lời nói và hành động, thì dù tướng có điểm chưa tốt cũng có thể cải biến vận mệnh, giữ được phúc lộc, địa vị bền lâu. Trời cao thường ban phúc cho người đức hạnh, không ưu ái kẻ hung ác.
21. Thượng Trường Hạ Đoản Hề, Vạn Lý Chi Tiêu Hán Đằng Dực
Phần trên của thân thể dài, phần dưới ngắn, là tướng mệnh của kẻ có thể bay cao vạn lý (tiềm năng lớn).
Người có lưng dài, chân ngắn được ví như chim bằng bay cao vạn dặm, không gì cản trở nổi. Đây là tướng của người có chí lớn, có khả năng đạt được thành tựu to lớn. Ngực cần đầy đặn, là nơi chứa thần khí, thần yên thì khí hòa.
22. Hạ Trường Thượng Đoản Hề, Nhất Sinh Chi Tông Tích Phiêu Linh
Một người mà thân thể, phần dưới dài, phần trên ngắn, thì cả đời lang thang đất khách.
Người chân dài, lưng ngắn thường có cuộc đời long đong, vất vả, hay phải xa quê hương, có thể chết nơi đất khách. Ngực ngắn, mỏng, không ngay ngắn hoặc khuyết hãm là tướng bần tiện. Ngực lồi thì chết yểu, ngực lõm thì vừa hung ác vừa khốn đốn. Tôn Quyền thời Tam Quốc được cho là có tướng thượng trường hạ đoản (lưng dài chân ngắn) nên đã hùng cứ một phương.
23. Duy Nhân, Bẩm Âm Dương Chi Hòa, Tiêu Thiên Địa Chi Trạng
Con người thừa hưởng, tiếp thụ khí âm, khí dương. Cho nên, về mặt hình thể, nó cũng đâu khác gì trời đất vậy.
Con người là sản phẩm của tự nhiên, là loài linh trưởng hấp thụ tinh hoa của âm dương, ngũ hành. Hình thể con người được xem là một vũ trụ thu nhỏ, phản ánh cấu trúc của trời đất:
- Đầu tròn như trời.
- Chân vuông như đất.
- Mắt như mặt trời, mặt trăng.
- Tiếng nói như sấm sét.
- Huyết khí như sông suối.
- Xương cốt như vàng đá.
- Mũi, trán như núi non.
- Lông tóc như cây cỏ.
Do đó, các bộ vị cũng cần có đặc tính tương ứng: đầu cần tròn rộng, chân cần vuông dày, mắt cần sáng, tiếng cần vang, huyết khí cần lưu thông, xương cốt cần rắn chắc, mũi trán cần cao đầy, lông tóc cần tươi tốt.
24. Túc Phương Hề, Tượng Địa Vu Hạ
Bàn chân vuông vắn mà dày, giống như cái mặt ở phía đất vậy.
Bàn chân cần vuông vức, đầy đặn, mềm mại nhưng vững chắc. Gan bàn chân nên có chỗ lõm sâu (không phẳng lỳ). Đây là quý tướng, thể hiện nền tảng vững chắc.
25. Đầu Tiên Hề, Tự Thiên Vi Thượng
Đầu vừa tròn vừa lớn, giống như cái mặt phía trên, mặt của trời vậy.
Đầu tượng trưng cho trời, cần tròn đầy, rộng rãi, cao ráo. Chân tượng trưng cho đất, cần vuông dày. Đầu tròn chân vuông là tướng phú quý. Đầu nhỏ, chân mỏng là tướng bần tiện.
Sách Quy giám nói: Đầu cao đầy, chân vuông dày là phú quý. Tóc tốt lan xuống tai cũng là tướng tốt.
Đường Sinh nói: Đầu là bộ vị cao nhất, cần to lớn vững vàng. Nếu đầu nhỏ, thân đỡ mệt mỏi là thân không đủ sức. Đầu nhỏ cũng thể hiện tính cách nhỏ nhen.
Hứa Phụ nói về các loại đầu giống thú vật:
- Đầu trâu (bò): Vuông vắn, phú quý cát tường.
- Đầu hổ: Cao ráo, phú quý vô cùng.
- Đầu chó: Tròn nhỏ, đời nhiều nước mắt, tai họa.
- Đầu hươu: Gầy dài, chí khí hùng cường.
- Đầu thỏ: Chí khí mạnh nhưng gàn dở.
- Đầu rái cá: To bè, tính khoáng đạt.
- Đầu voi: To dài, phúc lớn, sống lâu.
- Đầu tê giác: To cao, phú quý rực rỡ.
Chu Kiến nói:
- Đầu lạc đà: To cao, đại phúc đại lộc.
- Đầu rùa: Bé nhỏ, đủ ăn đủ mặc.
- Đầu rắn: Mỏng nhỏ, tài sản ít.
- Đầu cáo, đầu hổ (nhỏ nhọn): Gia cảnh khốn đốn.
Xương đầu dày là quý tướng, thọ tướng, đời vui vẻ. Da đầu trắng là hạ tiện. Da đầu xanh là thông minh, hiếu thuận, có lộc, sống lâu. Da đầu vàng là bần tiện. Da đầu đỏ dễ chết vì binh đao. Thịt đầu mỏng nhẹ là bần cùng. Đầu nhỏ mà tiếng nói nhọn sắc, mắt trắng đen rõ ràng, linh lợi thì có thể vượt qua khó khăn, lập công lớn (ví dụ tướng Bạch Khởi nhà Tần).
Kết luận
Qua 25 câu phú đầu tiên của Nhân Tướng Phú, chúng ta có thể thấy được sự uyên thâm và tinh tế trong phép xem tướng của cổ nhân. Từ cốt cách, hình dung, khí sắc, động tác cho đến giọng nói và các bộ vị cụ thể như Tứ độc, Ngũ nhạc, Ngũ quan, Lục phủ, tất cả đều ẩn chứa những thông điệp sâu sắc về vận mệnh, tính cách và tiềm năng của một con người.
Việc luận giải tướng mạo không chỉ dừng lại ở việc xem xét từng bộ phận riêng lẻ mà cần có cái nhìn tổng thể, xem xét sự cân đối, hài hòa giữa các yếu tố hình, khí, thần và sự tương hợp với ngũ hành, âm dương. Đồng thời, Nhân Tướng Phú cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tu dưỡng đạo đức như một yếu tố có thể tác động và cải thiện vận mệnh.
Đây là những kiến thức nền tảng quý báu cho những ai muốn tìm hiểu sâu hơn về nhân tướng học. Phong Thủy 69 sẽ tiếp tục giới thiệu và luận giải các phần tiếp theo của bộ sách kinh điển này trong các bài viết sau. Mời quý độc giả đón đọc và cùng khám phá những bí ẩn của thuật xem tướng.